Những ký ức đóng băng ở Trại phong Quy Hoà
Trong tâm trí của nhiều người, bệnh phong vẫn là một thứ gì đó đáng sợ. Nhưng vượt qua những định kiến, đâu đó vẫn có những cộng đồng nơi tình thương và sự cảm thông kết nối con người với con người. Làng phong Quy Hoà ở Quy Nhơn là một nơi đặc biệt như thế.
Trong bộ phim Dấu Ấn Của Quỷ của đạo diễn Việt Linh, nhân vật Lão cùi là một người mắc bệnh phong. Ông sống tách biệt ở rìa làng cùng với chú chó, cũng là người bạn duy nhất. Hằng ngày, ông đeo trên cổ một chiếc chuông để báo cho dân làng biết mà chạy đi. Tuy chỉ là phim, nhưng hình tượng Lão cùi đã phần nào thể hiện được nỗi đau, nỗi mất mát của người bệnh khi bị tước đi mối liên hệ với xã hội.
Trong một chuyến đi tới Quy Nhơn cách đây vài tháng, nhớ đến hình ảnh nhân vật này, chúng tôi đã đến thăm trại phong Quy Hòa. Khi tiến gần về phía ngôi làng, cảnh vật thiên nhiên xinh đẹp với ánh nắng chan hoà và tiếng sóng dịu êm hôm ấy hoàn toàn đối nghịch với hình ảnh u tối gắn liền với căn bệnh phong. Chúng tôi dành một buổi chiều để tham quan làng phong, gặp gỡ các cư dân, tìm hiểu lịch sử của ngôi làng cũng như cộng đồng nơi đây; để rồi hiểu thêm về bệnh phong và những điều tích cực của cuộc sống xung quanh nó.
Do thiếu kiến thức khoa học, nhiều người Việt lúc bấy giờ có quan điểm sai lệch về bệnh phong. Họ cho rằng đây là căn bệnh dễ lây lan, khiến người bệnh phải chịu sự kỳ thị từ xã hội. Người bệnh và gia đình thường bị cô lập và đối xử tàn nhẫn; thậm chí bị chôn sống, dìm nước hoặc đẩy vào chốn rừng núi hoang vu.
Vào những năm 1920, Bình Định được xác định có 360 người mắc bệnh phong. Tuy nhiên, nếu tính cả những ca chưa được chẩn đoán, sống rải rác ở vùng nông thôn, số ca thực tế có thể lên tới 1200, một con số khá đáng kể khi so với tổng số 70.000 dân của tỉnh. Trước tình cảnh hết sức cấp thiết, Paul Maheu, một linh mục người Pháp, cùng bác sĩ Lemoine của Bệnh viện Bình Định, đã thành lập Bệnh viện Laproserie de Quy Hoa vào năm 1929. Bệnh viện toạ lạc trên một dải đất ven biển, cách Quy Nhơn 8km về phía Nam.
Năm đầu tiên hoạt động, bệnh viện mở cửa đón 52 bệnh nhân. Phòng bệnh lúc này là những ngôi nhà tranh vách đất.
Ngày 06/07/1955, 5 nữ tu Phan sinh trở lại Quy Hòa, gồm 2 nữ tu ngoại quốc : Ozithe và Charles Antoine và 3 nữ tu Việt Nam: Anna Trần thị Mộ, Martha Nguyễn thị Nghi và Anna Phùng thị Khóa.
Nữ tu Charles Antoine, người Pháp, là một kiến trúc sư của Dòng đã cùng các Nữ tu Phan sinh góp nhiều sáng kiến để tổ chức đời sống cho bệnh nhân: Xây nhà thương, phòng cho bệnh nhân nặng; xây dựng khoảng 250 căn nhà ở xinh xắn, lát gạch, lợp ngói, mỗi nhà một vẻ, với vườn hoa trước thềm.
Các sơ đã cân nhắc nhu cầu của các bệnh nhân và gia đình, cũng như lối kiến trúc nhiệt đới của Việt Nam khi xây dựng công trình. Mỗi bệnh nhân khi đến đây sẽ đưa ra ý tưởng cho ngôi nhà của mình. Một số người còn tự tay vẽ họa tiết cho gạch, nên nhiều viên gạch ốp ở đây có thiết kế độc nhất vô nhị. Được tự do sáng tạo, các cư dân ở đây đã để lại nhiều dấu ấn cá nhân, tạo nên một tổng thể màu sắc, độc đáo từ họa tiết, mặt tiền đến mái nhà.
Nhu cầu y tế của của bệnh nhân cũng ảnh hưởng không nhỏ đến kiến trúc của bệnh viện Quy Hòa. Ở đây, sàn được lát gạch, thang có ít bậc, lối đi rộng rãi và không có hàng rào. Tất cả đều để hỗ trợ những bệnh nhân nặng với nhiều dị tật cơ thể. Ở ngoài, những hàng ghế, bóng cây và công viên nhỏ được lắp đặt, vì người sống trong viện chẳng mấy khi đặt chân khỏi đây.
Ảnh 1970
Ngày nay, con đường di chuyển từ Quy Nhơn đến Quy Hòa vô cùng thuận tiện. Nhưng trước đó, hành trình để tới được đây xa xôi hơn rất nhiều. Các nhu yếu phẩm phải được đưa đến bằng thuyền, đôi khi năm tháng mới có một chuyến. Vì điều kiện kinh tế khó khăn, người dân ở viện đã trồng dừa để ăn, làm dầu, làm xà phòng, thuốc và chổi. Bên cạnh đó họ phải xin quyên góp thức ăn và tiền từ các khu dân cư xung quanh. Đến tận năm 1994, không có trẻ em nào trong làng phong được học cấp hai.
Dẫu vậy, các cư dân Quy Hoà vẫn kiên cường vượt qua các thử thách, ngay cả trong chuyện giày dép. Bệnh phong thường khiến chân tay người bệnh biến dạng. Họ phải đi những đôi giày có hình dạng hoặc kích cỡ khác nhau, được thiết kế riêng biệt để giúp việc đi lại dễ dàng hơn. Đáp ứng nhu cầu này, vào năm 1997, một cơ sở đóng giày đặc biệt đã được thành lập trong viện. Công việc làm giày được các cư dân truyền qua nhiều thế hệ. Một người thợ mà Saigoneer có duyên gặp gỡ vẫn tiếp tục sống trong làng ngay cả khi đã nghỉ hưu.
Ngày nay, đa phần các cơ sở ở Quy Hoà đều được chăm lo ổn thỏa. Nhưng khi dạo quanh làng, chúng tôi vẫn thấy một số khu vực bị bỏ hoang, tràn ngập các dụng cụ y tế, đồ đạc và bảng hiệu đổ nát. Các thứ tiếng trên những biển hiệu ấy là minh chứng một giai đoạn lịch sử của ngôi làng, khi nhiều tổ chức trên thế giới cùng góp sức vào hoạt động ở đây. Ngày chúng tôi đến, khung cảnh ở đó rất đẹp, có tiếng chim hót líu lo từ xa. Nhưng nếu đặt vào bối cảnh khác, hình ảnh chiếc ghế phẫu thuật rỉ sét với những thiết bị cũ kỹ có lẽ đã khiến chúng tôi rợn tóc gáy.
Không ai biết chính xác tương lai của Quy Hoà sẽ đi về đâu. Với số bệnh nhân trong nước ngày càng thuyên giảm, các cơ sở y tế chuyên biệt như Quy Hòa có lẽ không cần tồn tại nữa, mà sẽ tái cơ cấu thành một khu dân cư bình thường, một ngôi làng nhỏ cho gia đình của những bệnh nhân cũ sinh sống. Gần đó, thành phố Quy Nhơn vẫn tiếp tục phát triển; ngôi làng nhỏ cũng khó tách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài như ngày trước. Vị trí của Quy Hòa cũng khá thuận tiện, nằm ngay trên hành trình của du khách muốn khám phá cung đường trekking ngắm bình minh đẹp nhất Quy Nhơn. Cũng cách đó chỉ vài ki-lô-mét, một tổ hợp không gian khoa học với trang thiết bị hiện đại hàng đầu đã được xây dựng, hằng năm đón tiếp nhiều chuyên gia hàng đầu trong nhiều lĩnh vực trên toàn thế giới về làm việc.
Với khung cảnh thơ mộng, kiến trúc độc đáo và giàu giá trị lịch sử, Quy Hòa là điểm đến ngày càng có sức hút đối với khách du lịch. Từng là một nơi chốn đơn côi, hiu quạnh, Quy Hòa giờ được xem là một thiên đường chụp hình cho bạn trẻ. Nhiều người có thể xem đây là một sự thay đổi kỳ quặc, nhưng có lẽ, đây là bước ngoặt cần thiết để Quy Hoà kết thúc một chương lịch sử cũ.
Trong bộ phim Dấu Ấn Của Quỷ của đạo diễn Việt Linh, nhân vật Lão cùi là một người mắc bệnh phong. Ông sống tách biệt ở rìa làng cùng với chú chó, cũng là người bạn duy nhất. Hằng ngày, ông đeo trên cổ một chiếc chuông để báo cho dân làng biết mà chạy đi. Tuy chỉ là phim, nhưng hình tượng Lão cùi đã phần nào thể hiện được nỗi đau, nỗi mất mát của người bệnh khi bị tước đi mối liên hệ với xã hội.
Trong một chuyến đi tới Quy Nhơn cách đây vài tháng, nhớ đến hình ảnh nhân vật này, chúng tôi đã đến thăm trại phong Quy Hòa. Khi tiến gần về phía ngôi làng, cảnh vật thiên nhiên xinh đẹp với ánh nắng chan hoà và tiếng sóng dịu êm hôm ấy hoàn toàn đối nghịch với hình ảnh u tối gắn liền với căn bệnh phong. Chúng tôi dành một buổi chiều để tham quan làng phong, gặp gỡ các cư dân, tìm hiểu lịch sử của ngôi làng cũng như cộng đồng nơi đây; để rồi hiểu thêm về bệnh phong và những điều tích cực của cuộc sống xung quanh nó.
Lịch sử bệnh phong ở Bình Định
Bệnh phong, còn được gọi là bệnh Hansen, là một trong những căn bệnh lâu đời nhất trên thế giới. Bệnh được gây ra bởi một loại vi khuẩn. Khi nhiễm bệnh lâu ngày, da và dây thần kinh của bệnh nhân sẽ bị tổn thương, khiến cơ thể họ dễ bị dị tật, kém nhạy cảm với nhiệt độ và vết đau. Bệnh không dễ lây, nhưng vì đến năm 1940 mới có thuốc chữa, người bệnh của những thập kỷ trước đó gần như phải sống trong cực hình. Bệnh hay bùng phát trong môi trường ô nhiễm và thiếu vệ sinh, khiến những khu dân cư nghèo bị ảnh hưởng nặng nề nhất.
Do thiếu kiến thức khoa học, nhiều người Việt lúc bấy giờ có quan điểm sai lệch về bệnh phong. Họ cho rằng đây là căn bệnh dễ lây lan, khiến người bệnh phải chịu sự kỳ thị từ xã hội. Người bệnh và gia đình thường bị cô lập và đối xử tàn nhẫn; thậm chí bị chôn sống, dìm nước hoặc đẩy vào chốn rừng núi hoang vu.
Vào những năm 1920, Bình Định được xác định có 360 người mắc bệnh phong. Tuy nhiên, nếu tính cả những ca chưa được chẩn đoán, sống rải rác ở vùng nông thôn, số ca thực tế có thể lên tới 1200, một con số khá đáng kể khi so với tổng số 70.000 dân của tỉnh. Trước tình cảnh hết sức cấp thiết, Paul Maheu, một linh mục người Pháp, cùng bác sĩ Lemoine của Bệnh viện Bình Định, đã thành lập Bệnh viện Laproserie de Quy Hoa vào năm 1929. Bệnh viện toạ lạc trên một dải đất ven biển, cách Quy Nhơn 8km về phía Nam.
Không ảnh Bệnh viện phong Quy Hòa 1969.
Vị trí ảnh chụp hiện nay.
So sánh với hiện nay, Nhà thờ Quy Hòa không thay đổi nhiều, có thêm vài khối nhà bên phải. Khu Làng Phong mọc thêm vài ngôi nhà bên trái. Khu điều trị nội trú Bệnh viện Da liễu nằm đầu đường Mộng Cầm chưa xây dựng. Nhà lưu niệm Hàn Mặc Tử vốn là khối nhà hình chữ H, nay chỉ còn lại dãy nhà phía đông. Khu đất trồng trọt phía tây nay nhà dân mọc lên nhiều.
Năm 1932, để chăm sóc cho số lượng bệnh nhân ngày càng lớn, sáu nữ tu người Pháp đã lên đường tới Quy Nhơn từ Marseille trên một chuyến hành trình khó nhọc. Khi đến nơi, họ liền bắt tay vào làm việc, vừa củng cố cơ sở vật chất, vừa chăm sóc, tắm rửa cho 180 bệnh nhân mỗi ngày. Những ngôi nhà tranh được xây thêm để phục vụ các bệnh nhân và người nhà đến ở cùng.
Trong phòng điều trị.
Trại phong Quy Hòa 1930
Đáng tiếc, bệnh viện chưa hoạt động được bao lâu thì đã bị một cơn bão năm 1933 tàn phá. Nhưng từ những tàn tích, một cơ sở mới rộng rãi, khang trang hơn đã được xây dựng.
Trại phong Quy Hòa tháng 03/1935
(Ảnh Hữu Tạo)
Các nữ tu dòng Phanxicô chăm sóc người bệnh tháng 03/1935
(Ảnh Hữu Tạo).
Nhìn các bức ảnh 1930, 1935, 1937 ta thấy khu làng phong thời điểm này vẫn là các ngôi nhà tranh và không có nhiều thay đổi, ngoại trừ các cây dừa. Tuy nhà tranh vách đất nhưng cũng khá chắc chắn. Do đó, một số thông tin trên mạng, bài viết này và cả trang gpquinhon cho rằng cơn bão năm 1933 càn qua khiến cho tất cả chỉ còn tàn tích là hơi quá.
T xin đính chính như sau: Ngày 27/02/1931, linh mục Paul Maheu qua đời tại Paris sau ba tháng trở về Pháp do bệnh nặng. Ông ra đi lúc 61 tuổi, để lại bệnh viện phong với bao dang dở. Thời gian 1930-1931 linh mục Pierre Alexandre tạm thời điều hành.
Cuối năm 1931 có hai cơn bão gây thiệt hại cho Bình Định cũng như làng phong. Cơn bão gây thiệt hại lớn, cộng với việc linh mục Paul Maheu vừa qua đời khiến làng phong lâm vào khó khăn, túng quẫn. Không để công sức Paul Maheu uổng phí, năm 1931-1943 linh mục Gabriel Marie Nicolas tiếp nối Alexandre và ngày 24/10/1932, để chăm sóc cho số lượng bệnh nhân ngày càng lớn, sáu nữ tu người Pháp đã tới Quy Nhơn từ Marseille để chăm sóc người bệnh và củng cố lại cơ sở vật chất. Ngày 01/11/1933 lại một cơn bão lớn quét qua làng phong làm gãy đổ nhiều công trình. Nhờ sự giúp đỡ của các ân nhân xa gần, đặc biệt những nỗ lực của các nữ tu Phanxicô (Phan sinh) ở đây, trại phong và ngôi làng được xây dựng lại. Việc xây dựng mới tiến hành suốt từ năm 1933 đến 1960 bằng việc huy động các nguồn tiền từ thiện trên cả nước. Khu vực chữa trị và nhà thờ được xây dựng trước tiên, tiếp theo mới đến xây dựng lại làng phong. Bằng chứng là hình làng phong năm 1935, 1937 vẫn là nhà tranh, khu điều trị đã là nhà gạch.
Bạn có nhận thấy điều trùng hợp ở các bức ảnh làng phong không? Mặc dù chụp 3 thời điểm khác nhau, nhưng chúng đều chụp cùng vị trí. Đây là ngã tư đầu làng phong, đi đến một chút nữa là gặp nhà lưu niệm Hàn Mặc Tử bên tay phải, cũng là nhà ông ấy khi ở đây. Vị trí chụp hình chính là ranh giới cuối cùng của thế giới người lành và người bệnh. Với những người không hoạt động trong lĩnh vực y khoa, bệnh phong lúc này vẫn là cái gì đó rất ghê gớm, người chụp ảnh không dám vào.
T đã đọc tài liệu 21 trang bằng tiếng Pháp nói về quá trình hình thành làng phong này. Tài liệu mô tả chi tiết hành trình quyên góp từ thiện bao gian khó của các linh mục, cũng như đức hy sinh, bác ái của các nữ tu mà thấy khâm phục. Sau năm 1944 khi Nhật hất cẳng Pháp, xâm lược Việt Nam, các linh mục đã trở về nước, đến năm 1955 thì trở lại. Tuy vậy, vẫn còn nhiều người ở lại Việt Nam cho đến năm 1976 - thời điểm Bệnh viện phong Quy Hòa bàn giao cho Bộ Y tế. Họ dành 40 năm cuộc đời cho bệnh viện, gần như trọn cuộc đời với làng phong, với những người bất hạnh dưới đáy xã hội.
Kiến trúc độc đáo của Quy Hoà bắt nguồn từ đâu?
Khác với sự ảm đạm thường thấy ở các cơ sở y tế, vẻ ngoài của Quy Hoà có phần sống động và màu sắc hơn hẳn. Dạo mắt xung quanh, chúng tôi thấy những bãi biển đẹp như tranh vẽ, những chùm hoa giấy nở rộ, những cây cọ xum xuê và những bãi cỏ trên cát — tất cả đều góp phần vào sự tươi sáng của Quy Hòa. Nhưng điều làm chúng tôi ấn tượng nhất chính là lối kiến trúc độc đáo.Nhà thờ Quy Hòa 1966
Ảnh Donald Howard Rightnowar
Ảnh 2022
Nữ tu Charles Antoine, người Pháp, là một kiến trúc sư của Dòng đã cùng các Nữ tu Phan sinh góp nhiều sáng kiến để tổ chức đời sống cho bệnh nhân: Xây nhà thương, phòng cho bệnh nhân nặng; xây dựng khoảng 250 căn nhà ở xinh xắn, lát gạch, lợp ngói, mỗi nhà một vẻ, với vườn hoa trước thềm.
4 ảnh của Charles Ellis 1966
Sở thú nhỏ
Ảnh George Hansen 1966
Tiểu cảnh
Ảnh George Hansen 1966
Trẻ em trai
Ảnh George Hansen 1966
Trong nhà thờ
Ảnh George Hansen 1966
Biển Quy Hòa
Ảnh George Hansen 1966
Trại phong lúc này trở thành một khu phố nhỏ, có đường ngang dọc ngăn nắp, nhà cửa khang trang. Trong trại phong có chợ, có xích lô, xe đạp, có một trường học cấp một, hội trường, sân bóng giải trí. Ngoài ra, còn có các cơ xưởng ngành nghề như: Rèn, mộc, hàn xì, hồ, đúc gạch bông, mài granitô. Các ngành thủ công như : Dệt vải, dệt chiếu, đan, may, thêu, vẽ. Ngoài ra, còn có xưởng làm nước mắm, sản xuất dầu dừa, làm xà phòng, vừa giúp thêm thu nhập cho anh chị em bệnh nhân, vừa giúp họ phát huy khả năng, gây niềm tự tin và vui sống trong xã hội.
Các sơ đã cân nhắc nhu cầu của các bệnh nhân và gia đình, cũng như lối kiến trúc nhiệt đới của Việt Nam khi xây dựng công trình. Mỗi bệnh nhân khi đến đây sẽ đưa ra ý tưởng cho ngôi nhà của mình. Một số người còn tự tay vẽ họa tiết cho gạch, nên nhiều viên gạch ốp ở đây có thiết kế độc nhất vô nhị. Được tự do sáng tạo, các cư dân ở đây đã để lại nhiều dấu ấn cá nhân, tạo nên một tổng thể màu sắc, độc đáo từ họa tiết, mặt tiền đến mái nhà.
Ảnh 1970
Ảnh George Hansen 1966
Chữ viết Q H 4 10 63 (Quy Hòa 04/10/1963)
Ảnh George Hansen 1966
Ảnh George Hansen 1966
Ảnh 1970
Ảnh George Hansen 1966
Ảnh 1970
Chứng tỏ khoảng thời gian 1966-1970 vị trí này từng bị biển xâm lấn mạnh, t chưa rõ nguyên nhân, có thể lại là một cơn bão, biển càn quét các công trình đến nỗi không còn gì.
Tuy chịu nhiều hạn chế về thể chất, nhưng các bệnh nhân vẫn chủ động trong việc xây dựng ngôi nhà của mình. Qua năm tháng, nhiều xu hướng và phong cách mới từ Nhật Bản, Hàn Quốc cũng xuất hiện trong các thiết kế nhà. Nhưng kiến trúc ở viện Quy Hoà không hề mất đi sự độc đáo, một phần vì chính những cư dân sinh sống ở đây. Có người nói rằng, có lẽ nỗi đau của gia chủ đã tô điểm thêm cho cơ ngơi họ tạo dựng.
Ở Quy Hoà, bệnh nhân không cần phải theo tôn giáo nào để được điều trị. Thế nhưng trong khuôn viên, ta vẫn bắt gặp những bức tượng thờ: Chúa Giêsu, Đức Mẹ Maria, các vị thánh và các y sĩ danh tiếng lúc bấy giờ. Sự có mặt của những bức tượng này như một lời nhắc nhở về sứ mệnh của ngôi làng: để xoa dịu và truyền động lực cho những mảnh đời bất hạnh. Những dáng hình ấy giờ đây vẫn còn tồn tại, kế bên ngôi nhà của cư dân danh tiếng nhất Quy Hoà: nhà thơ Hàn Mặc Tử.
Ở Quy Hoà, bệnh nhân không cần phải theo tôn giáo nào để được điều trị. Thế nhưng trong khuôn viên, ta vẫn bắt gặp những bức tượng thờ: Chúa Giêsu, Đức Mẹ Maria, các vị thánh và các y sĩ danh tiếng lúc bấy giờ. Sự có mặt của những bức tượng này như một lời nhắc nhở về sứ mệnh của ngôi làng: để xoa dịu và truyền động lực cho những mảnh đời bất hạnh. Những dáng hình ấy giờ đây vẫn còn tồn tại, kế bên ngôi nhà của cư dân danh tiếng nhất Quy Hoà: nhà thơ Hàn Mặc Tử.
Đến Quy Hoà vào những năm cuối đời, nhà thơ “bán trăng” lìa trần vào năm 1940, khi ông mới 28 tuổi. Mái ấm giản dị của ông ghi dấu đoạn kết của một cuộc đời bi thương, một sự nghiệp vì nghệ thuật. Trong căn phòng, những cuốn sách, đồ dùng cá nhân, thư từ, ảnh của những vị khách quý và tranh chân dung do người anh vẽ tặng được treo ngăn nắp trên tường, bên cạnh chiếc giường gỗ nơi ông qua đời.
Ảnh 2023
Những khó khăn hàng ngày
Dù ban quản lý viện luôn nỗ lực để xây dựng một môi trường sống thoải mái, lành mạnh nhưng cuộc sống ở Quy Hòa cũng có lúc khó khăn. Có thời điểm, chỉ có 10 nữ tu làm việc, chăm sóc cho hơn 1.000 bệnh nhân. Đến năm 1974, một năm trước khi chính phủ tiếp quản hoạt động của viện, đã có hơn 5.422 bệnh nhân và người nhà của họ cùng ở đây, khiến khuôn viên càng trở nên đông đúc. Những ngôi nhà càng ngày càng nhỏ lại còn nguồn lực thì càng khan hiếm, nhưng các bệnh nhân từ ngoài Bình Định vẫn được tiếp nhận, bất kể giàu nghèo.Ngày nay, con đường di chuyển từ Quy Nhơn đến Quy Hòa vô cùng thuận tiện. Nhưng trước đó, hành trình để tới được đây xa xôi hơn rất nhiều. Các nhu yếu phẩm phải được đưa đến bằng thuyền, đôi khi năm tháng mới có một chuyến. Vì điều kiện kinh tế khó khăn, người dân ở viện đã trồng dừa để ăn, làm dầu, làm xà phòng, thuốc và chổi. Bên cạnh đó họ phải xin quyên góp thức ăn và tiền từ các khu dân cư xung quanh. Đến tận năm 1994, không có trẻ em nào trong làng phong được học cấp hai.
Dẫu vậy, các cư dân Quy Hoà vẫn kiên cường vượt qua các thử thách, ngay cả trong chuyện giày dép. Bệnh phong thường khiến chân tay người bệnh biến dạng. Họ phải đi những đôi giày có hình dạng hoặc kích cỡ khác nhau, được thiết kế riêng biệt để giúp việc đi lại dễ dàng hơn. Đáp ứng nhu cầu này, vào năm 1997, một cơ sở đóng giày đặc biệt đã được thành lập trong viện. Công việc làm giày được các cư dân truyền qua nhiều thế hệ. Một người thợ mà Saigoneer có duyên gặp gỡ vẫn tiếp tục sống trong làng ngay cả khi đã nghỉ hưu.
Ngày nay, đa phần các cơ sở ở Quy Hoà đều được chăm lo ổn thỏa. Nhưng khi dạo quanh làng, chúng tôi vẫn thấy một số khu vực bị bỏ hoang, tràn ngập các dụng cụ y tế, đồ đạc và bảng hiệu đổ nát. Các thứ tiếng trên những biển hiệu ấy là minh chứng một giai đoạn lịch sử của ngôi làng, khi nhiều tổ chức trên thế giới cùng góp sức vào hoạt động ở đây. Ngày chúng tôi đến, khung cảnh ở đó rất đẹp, có tiếng chim hót líu lo từ xa. Nhưng nếu đặt vào bối cảnh khác, hình ảnh chiếc ghế phẫu thuật rỉ sét với những thiết bị cũ kỹ có lẽ đã khiến chúng tôi rợn tóc gáy.
Ảnh Donald Howard Rightnowar 1966
Cuộc sống sau khi hết bệnh
Việc sử dụng vắc-xin, cải thiện mức sống và xây dựng những cộng đồng biệt lập như Quy Hoà đã giúp đẩy lùi triệt để bệnh phong ở Đông Á và Đông Nam Á. Tuy nhiên, ở Việt Nam căn bệnh này vẫn còn tồn tại. Số người vẫn đang phải sinh sống với căn bệnh quái gở này lên đến hàng trăm. Nhiều người đã được chữa khỏi, nhưng vẫn cần được chăm sóc lâu dài do những khuyết tật về thể chất mà căn bệnh gây ra. Tính đến năm 2019, Quy Hoà là nơi ở của 421 bệnh nhân nội trú và khoảng 40–50 bệnh nhân ngoại trú. Thức ăn và khoản trợ cấp 300.000 VND hàng tháng được nhà nước và các nhà hảo tâm viện trợ. Song song với đó, các nữ tu tiếp tục đóng một vai trò quan trọng trong việc chăm sóc và kêu gọi hỗ trợ cho các cư dân Quy Hoà và hơn 20 cộng đồng, bệnh viện cho người mắc bệnh phong khác trên cả nước.Nhờ sự phổ cập kiến thức thức về y tế, số người bệnh đã được giảm thiểu, căn bệnh cũng không còn bị dị nghị như trước. Nhưng những bệnh nhân mắc dị tật vẫn còn tự ti, mặc cảm. Vì vậy, họ chọn sống trong những cộng đồng tách biệt, cùng những người đồng cảnh ngộ, những người hiểu được tình cảnh của họ. Khi dạo quanh nơi đây, chúng tôi thấy nhiều người đang ngủ trưa, xem tivi và một nhóm vui vẻ tụ tập đánh bài. Một vài trẻ em háo hức chào đón chúng tôi, và một người đàn ông đang chăm sóc một đàn gà chọi. Bị cô lập và gặp khó khăn kinh tế trong một thời gian dài trước đó, nhịp sống ở Quy Hoà cũng đôi khi chậm lại.
Không ai biết chính xác tương lai của Quy Hoà sẽ đi về đâu. Với số bệnh nhân trong nước ngày càng thuyên giảm, các cơ sở y tế chuyên biệt như Quy Hòa có lẽ không cần tồn tại nữa, mà sẽ tái cơ cấu thành một khu dân cư bình thường, một ngôi làng nhỏ cho gia đình của những bệnh nhân cũ sinh sống. Gần đó, thành phố Quy Nhơn vẫn tiếp tục phát triển; ngôi làng nhỏ cũng khó tách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài như ngày trước. Vị trí của Quy Hòa cũng khá thuận tiện, nằm ngay trên hành trình của du khách muốn khám phá cung đường trekking ngắm bình minh đẹp nhất Quy Nhơn. Cũng cách đó chỉ vài ki-lô-mét, một tổ hợp không gian khoa học với trang thiết bị hiện đại hàng đầu đã được xây dựng, hằng năm đón tiếp nhiều chuyên gia hàng đầu trong nhiều lĩnh vực trên toàn thế giới về làm việc.
Với khung cảnh thơ mộng, kiến trúc độc đáo và giàu giá trị lịch sử, Quy Hòa là điểm đến ngày càng có sức hút đối với khách du lịch. Từng là một nơi chốn đơn côi, hiu quạnh, Quy Hòa giờ được xem là một thiên đường chụp hình cho bạn trẻ. Nhiều người có thể xem đây là một sự thay đổi kỳ quặc, nhưng có lẽ, đây là bước ngoặt cần thiết để Quy Hoà kết thúc một chương lịch sử cũ.
Bài viết từ trang saigonneer.com có chỉnh sửa.
Nhận xét
Đăng nhận xét