Toàn cảnh Sân bay Quy Nhơn bằng hình ảnh
Ngày 4 tháng 2 năm 1970, loạt ảnh gồm 3 tấm do phi công người New Zealand ghi lại từ chiếc máy bay RNZAF Bristol Freighter NZ5904, khi đang đáp xuống sân bay, cách Quy Nhơn khoảng 800 mét. Bức ảnh không chỉ ghi dấu thời gian, mà còn hé lộ toàn cảnh đầu phía nam của sân bay Quy Nhơn – một cảnh tượng khiến bất kỳ ai từng sống ở đây thời kỳ này đều thấy bồi hồi.
Sân bay Quy Nhơn là một phi trường nằm gọn trong nội đô, với đường băng chính dài khoảng 1.300 mét, rộng 40 mét, từng phục vụ các chuyến bay quân sự và dân sự trong những năm tháng chiến tranh. Đường băng của sân bay được thiết kế chính xác theo trục Bắc – Nam, thẳng tắp từ bờ biển vào nội thị, khiến bất kỳ ai nhìn từ trên cao cũng phải trầm trồ vì sự thẳng hàng hoàn hảo với địa hình.
Với quy mô như vậy, sân bay Quy Nhơn chủ yếu phục vụ các loại máy bay cỡ nhỏ, và từng đóng vai trò quan trọng trong cả hoạt động dân sự lẫn quân sự vào thời điểm đó.
Ở hình thứ 2, khi máy bay cách Quy Nhơn khoảng 300m, so sánh với hiện nay ta có thể thấy:
Hai khối nhà bên trái và bên phải dưới ảnh, đã bị giải tỏa, nhường chỗ cho khu vực quảng trường và tượng đài Nguyễn Sinh Sắc - Nguyễn Tất Thành. Đường cong hình chữ S bên phải có một vị trírất nổi tiếng. Đó là khúc cua bên dưới -Eo Nín Thở - khúc cua này được lính Mỹ chụp ảnh nhiều vì đây là khu vực làng chài, tương đối khác lạ dưới mắt người Mỹ.
Đoạn cua bên trên được nối vào đường Nguyễn Huệ. Hiện nay, nó cắt ngang sân bay tạo thành vòng xoay, nơi giao nhau giữa Nguyễn Tất Thành và Nguyễn Huệ.
Bãi cỏ bên phải giờ là công viên và đường Đô Đốc Bảo. Bãi cỏ bên trái nay là khu phức hợp mua sắm, dịch vụ, giải trí. Đường lăn bên trái nay là đường Lê Duẩn. Khu vực bãi đáp bên trên nay là vị trí tòa nhà Sailing đang xây dựng và một loạt trụ sở các ngân hàng, bưu điện.
Bức ảnh thứ 3 mô tả cận cảnh đầu phía nam sân bay. Sân bay Quy Nhơn được sinh ra vào đầu những năm 1930, dưới bàn tay của người Pháp. Khi ấy, mảnh đất Quy Nhơn còn hoang sơ, sân bay xuất hiện như một biểu tượng quyền lực và hiện đại, nhưng không phải cho người bản địa. Những chuyến bay đầu tiên mang theo thư từ, quan chức và những người thuộc tầng lớp “trên mây”, trong khi dân bản xứ chỉ có thể ngước nhìn, nuốt ước mơ vào lòng và gọi đó là chuyện của “thiên hạ”.
Rồi chiến tranh kéo đến, sân bay trưởng thành trong tiếng gầm rú của phản lực, trong bước chân dồn dập của lính Mỹ, trong bụi mù và những ánh mắt trẻ thơ tròn xoe nhìn theo từng chiếc máy bay như đuổi theo một điều kỳ diệu. Người lớn thì không còn hào hứng. Họ quen dần với tiếng động cơ lấn át tiếng lòng, với bụi đỏ phủ lên sân nhà, và với cả sự bất an vô hình lẩn khuất trong từng lần cất cánh.
Thập niên 1960, sân bay Quy Nhơn hoạt động khá tấp nập, tuy nhiên chủ yếu phục vụ cho hoạt động quân sự. Về dân sự, có các tuyến bay:
Quy Nhơn-Đà Nẵng
Quy Nhơn-Huế
Quy Nhơn-Đà Lạt
Quy Nhơn-Buôn Ma Thuột
Nhận xét
Đăng nhận xét