Trường thi Bình Định và sĩ tử Quảng Ngãi
Lớp học của một thầy giảng thuộc Hội Thừa sai Paris
Đến năm Canh Tuất (1850), Tự Đức thứ 3 (嗣 德), mới bắt đầu thành lập Trường thi Bình Định [1] để nhận thí sinh các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa. Về sau, trường Bình Định còn nhận thêm thí sinh của tỉnh Bình Thuận rồi Ninh Thuận. Nếu không kể Trường thi An Giang lập năm 1863, mở một khoa rồi phải xóa tên vì bị Pháp chiếm, thì có thể nói Trường thi Bình Định là trường thứ 7, ra đời muộn nhất, sau cả Trường Thanh Hoá được tái sinh (1848).
I – VÀI NÉT SƠ LƯỢC
Trường thi Bình Định được xây dựng trên vùng đất gò, thuộc thôn Hòa Nghi, tổng Thời Đôn, huyện Tuy Viễn, phủ An Nhơn; nay là thôn Hòa Nghi, xã Nhơn Hòa, huyện An Nhơn. Trường thi nằm phía tây nam thành Bình Định và hữu ngạn Nam phái sông Côn, lại gặp khúc cong nên 3 mặt Tây, Bắc, Đông đều có sông ngăn cách, tiện cho việc canh phòng. Khu vực trường thi là một cái nền rộng, chu vi chừng 1.000 mét, cao gần 2 mét, xây bằng đá ong, mặt nền bằng phẳng và lộ thiên. Đến kỳ mở khoa thi, quan tỉnh mới sai dựng hàng rào dày xung quanh, cất nhà tạm cho quan trường và chia vi cho thí sinh.
Ngày thi, sĩ tử được gọi vào vi đã phân lô, tự cất lều để làm bài suốt một ngày. Tuyệt đối không được qua lại lều người khác trong giờ thi.
Khoa Nhâm Tý (1852), Tự Đức thứ 5, Trường Bình Định mở khoa thi đầu tiên. Bộ Lễ qui định số người đậu Cử nhân trên toàn quốc mỗi khóa là 124 người, phân định cho các trường như sau: Thừa Thiên lấy đậu 20 người, Nghệ An 18 người, Thanh Hóa 20, Nam Định 20, Hà Nội 20, Bình Định 13 và Gia Định 13.
Bộ Lễ cũng đã xếp Trường Bình Định vào nhóm Trường Thừa Thiên, Nghệ An, Gia Định, tổ chức thi Hương vào tháng bảy âm lịch ở những năm Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu (định lệ về năm, đôi khi không thực hiện đúng) còn nhóm thứ hai gồm Trường Thanh Hóa, Nam Định, Hà Nội, thi vào tháng chín những năm trên.
Tính từ khoa Nhâm Tý (1852), Tự Đức thứ 5, đến khoa Mậu Ngọ (1918), Khải Định thứ 3 (啟 定) là năm chấm dứt vĩnh viễn nền Nho học, triều đình nhà Nguyễn đã mở 29 khoa thi Hương. Trường thi Bình Định chỉ tham dự 23 khoa, còn 6 khoa trường này không tổ chức thi bởi các lý do:
– Năm 1859, liên quân Pháp và Tây Ban Nha đánh chiếm thành Gia Định. Rồi năm 1861, các tỉnh Định Tường, Biên Hòa thất thủ. Tiếp đến 1862 triều đình ta phải nhường ba tỉnh Miền Đông Nam Kỳ cho Pháp. Biến cố dồn dập, đất nước có rất nhiều việc khẩn trương phải giải quyết, nên Trường thi Bình Định tạm đóng cửa. Vì vậy, khoa thi năm Tân Dậu (1861), Tự Đức thứ 14, sĩ tử ở Trường Bình Định phải ra Huế thi chung với Trường Thừa Thiên. Còn khoa thi năm Giáp Tý (1864) thì theo lệ cũ, nghĩa là các tỉnh từ Phú Yên tới Quảng Ngãi ra thi ở Trường Thừa Thiên; các tỉnh từ Khánh Hòa đến Bình Thuận vào thi ở Trường An Giang (thay thế cho Gia Định)
– Năm Quý Dậu (1873), Tự Đức thứ 26, đúng hạn kỳ mở khoa thi Hương trên toàn quốc (không kể Nam Kỳ đã bị Pháp chiếm), thì ở Bắc Kỳ lại gặp biến (Hà thành thất thủ lần thứ nhất). Các trường thi Hà Nội và Nam Định không thi được, nên triều đình mở khoa Giáp Tuất (1874) với tính cách là khoa Quý Dậu triển hạn, để sĩ tử hai trường trên ứng thí. Trường Bình Định đã mở khoa Quý Dậu nên không mở khoa này.
– Trường Bình Định còn bị gián đoạn ba khoa nữa. Đó là khoa Bính Tuất (1886), Đồng Khánh nguyên niên (同 慶), Trường Bình Định đã thi xong ở khoa Ất Dậu (1885) nên nay không thi nữa. Đến khoa thi năm Đinh Hợi (1887), Đồng Khánh thứ 2, phong trào Cần Vương ở các tỉnh Miền Nam Trung Kỳ đang lúc sôi động, nên trường Bình Định không mở được khoa thi, và sĩ tử miền này cũng không ra Huế ứng thí. Rồi khoa thi năm Mậu Tý (1888), Đồng Khánh thứ 3, tình hình chưa ổn định, Trường Bình Định vẫn bị đình và chỉ một ít sĩ tử miền này ra Huế thi chung với Trường Thừa Thiên.
II – TRƯỜNG BÌNH ĐỊNH VÀ CÁC KHOA THI HƯƠNG
Căn cứ vào Quốc Triều Hương Khoa Lục của Cao Xuân Dục, Trường thi Bình Định mở được 23 khoa, có 355 sĩ tử đỗ Cử nhân và khoảng 920 Tú tài. Nếu chỉ tính riêng tỉnh Quảng Ngãi có 104 Cử nhân, liệt kê theo thứ tự các khoa thi:
1/ Khoa Nhâm Tý (1852), Tự Đức thứ 5 (嗣 德), lấy đỗ 13 người. Trong đó Bình Định 11, có Giải nguyên; Quảng Ngãi 2, có Á nguyên. Sĩ tử Quảng Ngãi đỗ Cử Nhân khoa này gồm:
– Phan Văn Điển, đỗ thứ nhì, người thôn An Thổ, huyện Mộ Đức.
– Lê Trung Lượng, đỗ thứ 5, người thôn Phú Nhơn, huyện Bình Sơn. Con là Cử nhân Lê Trung Đình đỗ khoa Giáp Thân (1884).
2/ Khoa Ất Mão (1855), Tự Đức thứ 8, lấy đỗ 13 người: Bình Định 4, có Giải nguyên; Quảng Ngãi 7, có Á nguyên; Phú Yên 2. Sĩ tử Quảng Ngãi đỗ Cử Nhân khoa này gồm:
– Kiều Tòng (cải danh Kiều Lâm), đỗ thứ nhì, người thôn An Đại, huyện Chương Nghĩa. Đến khoa Nhâm Tuất (1862) lấy bằng Tiến sĩ.
– Nguyễn Hữu Tạo, đỗ thứ 3, người thôn An Đại, huyện Mộ Đức.
– Trần Đăng Tự, đỗ thứ 5, người thôn Chánh Mông (sau đổi Chánh Lộ), huyện Chương Nghĩa.
– Võ Văn Tịnh (cải danh Võ Văn Thanh), đỗ thứ 10, người thôn Ba La, huyện Chương Nghĩa, là con của Cử nhân Võ Trọng Liên.
– Đỗ Trứ, đỗ thứ 11, người thôn Vạn Thiện, huyện Bình Sơn.
– Nguyễn Phạm Khánh, đỗ thứ 12, người thôn Lâm Lộc, huyện Bình Sơn.
– Đặng Thừa Tích, đỗ thứ 13, người thôn Chương Thạnh, huyện Chương Nghĩa.
3/ Khoa Mậu Ngọ (1858), Tự Đức thứ 11, lấy đỗ 13 người: Bình Định 7, có Giải nguyên; Quảng Ngãi 6, có Á nguyên. Sĩ tử Quảng Ngãi đỗ Cử Nhân khoa này gồm:
– Phạm Thúc, đỗ thứ 2, người thôn Trà Bình, huyện Bình Sơn.
– Nguyễn Trọng Biện (cải danh Nguyễn Hiệp), đỗ thứ 3, người thôn Năng An, huyện Mộ Đức.
– Phạm Đăng Dương, đỗ thứ 8, người thôn Tân Hội, huyện Chương Nghĩa.
– Lê Bá Ngọc, đỗ thứ 10, người thôn Chánh Mông, huyện Chương Nghĩa.
– Phan Đình Ngạn, đỗ thứ 11, người thôn Chánh Mông, huyện Chương Nghĩa.
– Đặng Văn Giai, đỗ thứ 12, người thôn La Ba, huyện Chương Nghĩa.
4/ Khoa Đinh Mão (1867), Tự Đức thứ 20, lấy đỗ 18 người: Bình Định 14, chiếm cả Giải nguyên lẫn Á nguyên; Quảng Ngãi 4. Kể từ khoa này, Trường Bình Định nhận thí sinh của Bình Thuận. Và sĩ tử Quảng Ngãi đỗ Cử Nhân khoa Đinh Mão có:
– Trần Văn Lý, đỗ thứ 9, người thôn Trung Lý, huyện Mộ Đức.
– Trần Giảng, đỗ thứ 14, người thôn Chánh Lộ, huyện Chương Nghĩa.
– Lê Văn Quang, đỗ thứ 15, người thôn Phi Chiểu, huyện Mộ Đức.
– Huỳnh Quang Quang, đỗ thứ 18, người thôn Lỗ Bôi, huyện Mộ Đức.
5/ Khoa Mậu Thìn (1868), Tự Đức thứ 21, lấy đỗ 15 người: Bình Định 8; Quảng Ngãi 7, chiếm cả Giải nguyên lẫn Á nguyên. Sĩ tử Quảng Ngãi đỗ Cử Nhân khoa này gồm:
– Nguyễn Luật, đỗ thứ 1, người thôn Mỹ Khê, huyện Bình Sơn.
– Nguyễn Duy Cung, đỗ thứ 2, người thôn Vạn Tượng, huyện Chương Nghĩa.
– Nguyễn Tấn Phĩ, đỗ thứ 4. Ông là em của Nguyễn Duy Cung.
– Lê Trọng Khanh, đỗ thứ 8, người thôn An Chỉ, huyện Chương Nghĩa.
– Trịnh Văn Thái, đỗ thứ 9, người thôn Quất Lâm, huyện Mộ Đức.
– Lê Địch Cát, đỗ thứ 10, người thôn Năng An, huyện Mộ Đức.
– Nguyễn Hữu Mưu (cải danh là Nguyễn Hữu Thảng), đỗ thứ 14, người thôn Chánh Mông, huyện Chương Nghĩa.
6/ Khoa Canh Ngọ (1870), Tự Đức thứ 23, lấy đỗ 16 người: Bình Định 7; Quảng Ngãi 8, chiếm cả Giải nguyên lẫn Á nguyên; Phú Yên 1. Và sĩ tử Quảng Ngãi đỗ Cử Nhân khoa Đinh Mão gồm có:
– Trương Đăng Tuyển, đỗ thứ 1, người thôn Phú Nhơn, huyện Bình Sơn.
– Phạm Viết Duy, đỗ thứ 2, người thôn Chánh Mông, huyện Chương Nghĩa.
– Dương Đình Thọ, đỗ thứ 7, người thôn Tuyết Diêm, huyện Bình Sơn.
– Nguyễn Đăng Ngoạn, đỗ thứ 8, người thôn Kim Giao, huyện Mộ Đức.
– Lê Uyển, đỗ thứ 9, người thôn Phú Nhơn, huyện Chương Nghĩa.
– Huỳnh Toản, đỗ thứ 10, người thôn An Lộc, huyện Bình Sơn.
– Nguyễn Văn Tụy, đỗ thứ 14, người thôn Thạch Than, huyện Mộ Đức.
– Trần Văn Thể, đỗ thứ 15, người thôn Năng An, huyện Mộ Đức.
7/ Khoa Quý Dậu (1873), Tự Đức thứ 26, lấy đỗ 15 người: Bình Định 8, có Giải nguyên; Quảng Ngãi 4; Phú Yên 1; Bình Thuận 2, có Á nguyên. Sĩ tử Quảng Ngãi đỗ Cử Nhân khoa này gồm có:
– Nguyễn Văn Tấn, đỗ thứ 3, người thôn Thu Sa, huyện Chương Nghĩa.
– Huỳnh Văn Chất, đỗ thứ 8, người thôn Bình An, huyện Mộ Đức.
– Nguyễn Đình Giản, đỗ thứ 10, người thôn Phước Lộc, huyện Bình Sơn.
– Phạm Trọng Di, đỗ thứ 12, người thôn Lâm Lộc, huyện Bình Sơn.
8/ Khoa Bính Tý (1876), Tự Đức thứ 29, lấy đỗ 12 người: Bình Định 7, có Á nguyên; Quảng Ngãi 3, có Giải nguyên; Phú Yên 1; Bình Thuận 1. Sĩ tử Quảng Ngãi đỗ Cử Nhân khoa này gồm:
– Phạm Văn Hành, đỗ thứ 1, người thôn Thuận Phước, huyện Bình Sơn.
– Võ Văn Hành, đỗ thứ 4, người thôn An Tây, huyện Mộ Đức.
– Lê Dưỡng, đỗ thứ 5, người thôn Quất Lâm, huyện Mộ Đức.
9/ Khoa Mậu Dần (1878), Tự Đức thứ 31, lấy đỗ 11 người: Bình Định 6, có Giải nguyên. Quảng Ngãi 5, có Á nguyên. Sĩ tử Quảng Ngãi đỗ Cử Nhân khoa này gồm:
– Phạm Hữu Mô, đỗ thứ 2, người thôn An …[2], huyện Bình Sơn.
– Nguyễn Hữu Thục, đỗ thứ 3, người ty Trù Thất, huyện Mộ Đức.
– Trần Hữu Gia, đỗ thứ 4, người thôn Tất Thủy, huyện Bình Sơn.
– Phan Văn Úy, đỗ thứ 9, người thôn Trung Lý, huyện Mộ Đức.
– Nguyễn Viết Trực, đỗ thứ 11, người thôn Phú Lộc, huyện Bình Sơn.
10/ Khoa Kỷ Mão (1879), Tự Đức thứ 32, lấy đỗ 8 người: Bình Định 5, có Á nguyên; Quảng Ngãi 3, có Giải nguyên. Sĩ tử Quảng Ngãi đỗ Cử Nhân khoa này gồm:
– Bùi Phụ Truyền, đỗ thứ 1, người thôn Thu Phố, huyện Chương Nghĩa.
– Nguyễn Cự, đỗ thứ 7, người thôn An Ba, huyện Mộ Đức.
– Võ Trọng Liên, đỗ thứ 8, người thôn Ba La, huyện Chương nghĩa. Ông là con của Cử nhânVõ Duy Tịnh [3].
11/ Khoa Nhâm Ngọ (1882), Tự Đức thứ 35, lấy đỗ 11 người: Bình Định 6, có Á nguyên; Quảng Ngãi 5, có Giải nguyên. Sĩ tử Quảng Ngãi đỗ Cử Nhân khoa này gồm:
– Trần Cư, đỗ thứ 1, người thôn Châu Nhai, huyện Bình Sơn.
– Nguyễn Mậu Thọ, đỗ thứ 6, người thôn An Ba, huyện Mộ Đức.
– Nguyễn Du, đỗ thứ 7, người thôn Thạch Lập, huyện Mộ Đức.
– Lê Tựu Khiết, đỗ thứ 9, người thôn An Ba, huyện Mộ Đức.
– Bùi Doãn, đỗ thứ 11, người thôn Chiêu Lộc, huyện Bình Sơn.
12/ Khoa Giáp Thân (1884), Kiến Phúc thứ 1 (建 福), lấy đỗ 18 người: Bình Định 12, có Á nguyên; Quảng Ngãi 5, có Giải nguyên; Phú Yên 1. Sĩ tử Quảng Ngãi đỗ Cử Nhân khoa này gồm:
– Phạm Văn Chất, đỗ thứ 1, người thôn Thi Phổ, huyện Mộ Đức.
– Võ Dương, đỗ thứ 5, người thôn An Thổ, huyện Mộ Đức.
– Phạm Văn Nga, đỗ thứ 7, người thôn Thi Phổ, huyện Mộ Đức.
– Nguyễn Thừa Lương, đỗ thứ 8, người thôn Vạn Tượng, huyện Chương Nghĩa.
– Lê Trung Đình, đỗ thứ 17, người thôn Phú Nhơn, huyện Bình Sơn.
13/ Khoa Ất Dậu (1885), Hàm Nghi thứ 1 (咸 宜), lấy đỗ 8: Bình Định 7, chiếm cả Giải nguyên và Á Nguyên; Phú Yên 1. Quảng Ngãi bỏ thi vì biến cố Kinh đô thất thủ.
Ban giám khảo Trường thi Bình Định, khoa Ất Dậu -1885 (ảnh tư liệu)
14/ Khoa Tân Mão (1891), Thành Thái thứ 3 (成 泰), lấy đỗ 17 người: Bình Định 10, có Giải nguyên; Quảng Ngãi 4, có Á nguyên; Phú Yên 1; Khánh Hoà 1 và Bình Thuận 1. Sĩ tử Quảng Ngãi đỗ Cử Nhân khoa này gồm:
– Đỗ Quân, đỗ thứ 2, người thôn Châu Sa, huyện Bình Sơn. Ông nội là Phó bảng Đỗ Đăng Đệ đậu khoa Nhâm Dần (1842).
– Võ Văn Quang, đỗ thứ 4, người thôn Hòa Vinh, tỉnh Quảng Ngãi.
– Lê Ngãi, đỗ thứ 12, người thôn Bình An, tỉnh Quảng Ngãi .
– Trương Quang Phùng, đỗ thứ 13, người thôn Mỹ Khê Tây, tỉnh Quảng Ngãi.
15/ Khoa Giáp Ngọ (1894), Thành Thái thứ 6, lấy đỗ 19 người: Bình Định 9, có Á nguyên; Quảng Ngãi 5, có Giải nguyên; Phú Yên 1; Khánh Hòa 1; Bình Thuận 1 và các tỉnh khác 2. Sĩ tử Quảng Ngãi đỗ Cử Nhân khoa này gồm:
– Dương Huy, đỗ thứ 1, người thôn Phú Nhơn, huyện Bình Sơn.
– Võ Văn Quý, đỗ thứ 4, người huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi.
– Bùi Trọng Cung, đỗ thứ 9, người huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi.
– Trương Quang Kỳ, đỗ thứ 11, người thôn Mỹ Khê, huyện Bình Sơn. Ông nội là Trương Đăng Quế, đỗ Cử nhân khoa Kỷ Mão (1819) trường Trực Lệ. Chú là Trương Đăng Trinh, đỗ Cử nhân khoa Tân Sửu (1841) trường Thừa Thiên.
– Đoàn Thúc Vĩ, đỗ thứ 14, người thôn Nhơn Hòa, huyện Bình Sơn. Cha là Đoàn Khắc Nhượng, chú họ là Đoàn Duy Trinh, cùng đỗ khoa Bính Ngọ (1846) trường Thừa Thiên.
16/ Khoa Đinh Dậu (1897), Thành Thái thứ 9, lấy đỗ 18 người: Bình Định 9; Quảng Ngãi 6, chiếm cả Giải nguyên lẫn Á nguyên; Phú Yên 2; Khánh Hòa 1. Sĩ tử Quảng Ngãi đỗ Cử Nhân khoa này gồm:
– Phạm Hào, đỗ thứ 1, người thôn An Mỹ, tỉnh Quảng Ngãi .
– Đồng Cát Phủ, đỗ thứ 2, người thôn Ba La, huyện Tư Nghĩa.
– Phạm Khuếch, đỗ thứ 13, người thôn Trà Bình, huyện Mộ Đức.
– Nguyễn Đình Quản, đỗ thứ 14, người thôn Phong Niên, tỉnh Quảng Ngãi.
– Nguyễn Mân, đỗ thứ 15, người thôn Kim giao, tỉnh Quảng Ngãi.
– Võ Chức, đỗ thứ 16, người thôn Trung Sơn, huyện Bình Sơn.
17/ Khoa Canh Tý (1900), Thành Thái thứ 12, lấy đỗ 24 người: Bình Định 9; Quảng Ngãi 10, chiếm cả Giải nguyên lẫn Á nguyên; Phú Yên 1; Khánh Hòa 1; Bình Thuận 3. Sĩ tử Quảng Ngãi đỗ Cử Nhân khoa này gồm:
– Tạ Hàm, đỗ thứ 1, người thôn Chánh Lộ, huyện Chương Nghĩa. Cha là Tiến sĩ Tạ Tương đỗ khoa Nhâm Thìn (1892).
– Trương Quang Quý, đỗ thứ 2, người thôn Phú Nhơn, huyện Bình Sơn.
– Trần Quý Phụng, đỗ thứ 3, người thôn Bồ Đề, huyện Mộ Đức.
– Võ Thiếu Trinh, đỗ thứ 5, người thôn Ba La, huyện Chương Nghĩa. Cha là Cử nhân Võ Văn Tịnh đỗ khoa Ất Mão (1855); anh là Cử nhân Võ Trọng Liên đỗ khoa Kỷ Mão (1879).
– Nguyễn Phan, đỗ thứ 8, người thôn Kim Giao, huyện Đức Phổ. Cha là Cử nhân Nguyễn Đăng Ngoạn đỗ khoa Canh Ngọ (1870).
– Nguyễn Phàn, đỗ thứ 10, người thôn Yên Ninh, huyện Đức Phổ.
– Mai Phong, đỗ thứ 11, người thôn Thanh An, huyện Mộ Đức.
– Tô Thành, đỗ thứ 19, người thôn Thái Lăng, huyện Mộ Đức.
– Lê Trung Khoản, đỗ thứ 21, người thôn Tham Hội, huyện Bình Sơn.
– Lê Chi, đỗ thứ 24, người thôn Xuân Tây, huyện Đức Phổ.
18/ Khoa Quý Mão (1903), Thành Thái thứ 15, lấy đỗ 18 người: Bình Định 8, có Giải nguyên; Quảng Ngãi 5; Phú Yên 1; Bình Thuân 1; các nơi khác 3, người Hà Nội đoạt Á nguyên. Kể từ khoa này có thêm thí sinh tỉnh Phan Rang (tức Ninh Thuận). Sĩ tử Quảng Ngãi đỗ Cử Nhân khoa này gồm:
– Lê Đình Cẩn, đỗ thứ 3, người thôn Hòa Vinh, huyện Chương Nghĩa.
– Lê Trung Kinh, đỗ thứ 5, người thôn Phú Nhơn, huyện Bình Sơn. Cha là Cử nhân Lê Trung Lượng đỗ khoa Nhâm Tý (1852); anh là Cử nhân Lê Trung Đình đỗ khoa Giáp Thân (1884).
– Nguyễn Sủy, đỗ thứ 9, người thôn Hổ Khiếu, huyện Chương Nghĩa.
– Nguyễn Trung Khác, đỗ thứ 14, người thôn Đông An, huyện Bình Sơn.
– Lâm Văn Bính, đỗ thứ 18, người thôn Đông Nhị, huyện Bình Sơn.
19/ Khoa Bính Ngọ (1906), Thành Thái thứ 18, lấy đỗ 24 người: Bình Định 12, chiếm cả Giải nguyên lẫn Á Nguyên; Quảng Ngãi 3; Phú Yên 3; Khánh Hòa 2; Bình Thuận 1; các nơi khác 3. Sĩ tử Quảng Ngãi đỗ Cử Nhân khoa này gồm:
– Trần Nguyên Thiệp, đỗ thứ 9, người thôn Tú Sơn, huyện Mộ Đức.
– Nguyễn Thuyên, đỗ thứ 20, người thôn Nam An, huyện Bình Sơn.
– Huỳnh Ngọc Trác, đỗ thứ 24, người thôn Thạch An, huyện Sơn Tịnh.
20/ Khoa Kỷ Dậu (1909), Duy Tân thứ 3 (維 新), lấy đỗ 16 người: Bình Định 7, chiếm cả Giải nguyên lẫn Á nguyên; Quảng Ngãi 2; Phú Yên 1; Ninh Thuận 2 (tỉnh mới lập, từ năm 1901 đến 1913); Bình Thuận 1; các nơi khác 3. Sĩ tử Quảng Ngãi đỗ Cử Nhân khoa này gồm:
– Trần Thường, đỗ thứ 4, người thôn An Thạch, huyện Đức Phổ.
– Trần Mậu, đỗ thứ 13, người thôn Thạch Than, huyện Mộ Đức.
21/ Khoa Nhâm Tý (1912), Duy Tân thứ 6, lấy đỗ 18 người: Bình Định 8, có Á nguyên; Quảng Ngãi 5, có Giải nguyên; Khánh Hòa 1; Ninh Thuận 1; các nơi khác 3. Sĩ tử Quảng Ngãi đỗ Cử Nhân khoa này gồm:
– Trần Phan, đỗ thứ 1, người thôn Bồ Đề, huyện Mộ Đức.
– Trần Văn Trạch, đỗ thứ 9, người thôn Năng An, huyện Mộ Đức.
– Hồ Kỳ Trân, đỗ thứ 10, người thôn Thu Phố, huyện Chương Nghĩa.
– Nguyễn Xuân Quang, đỗ thứ 13, người thôn Tân An, huyện Mộ Đức.
– Bùi Chước, đỗ thứ 15, người thôn Phước Lộc, huyện Sơn Tịnh.
22/ Khoa Ất Mão (1915), Duy Tân thứ 9, lấy đỗ 18 người: Bình Định 10, có Giải nguyên; Quảng Ngãi 1; Phú Yên 3, có Á Nguyên; các tỉnh khác 4. Tỉnh Ninh Thuận giải thể [4], thí sinh lại nhập vào hai tỉnh Khánh Hòa và Bình Thuận. Sĩ tử Quảng Ngãi đỗ Cử Nhân khoa này gồm:
– Lê Thế, đỗ thứ 14, người thôn Long Phụng, huyện Mộ Đức.
23/ Khoa Mậu Ngọ (1918), Khải Định thứ 3 (啟 定), lấy đỗ 12 người: Bình Định 2; Quảng Ngãi 4, có Giải nguyên; Phú Yên 2; các nơi khác 4, người Quảng Nam đoạt Á nguyên. Sĩ tử Quảng Ngãi đỗ Cử Nhân khoa này gồm:
– Phạm Trinh, đỗ thứ 1, người thôn Chánh Lộ, huyện Chương Nghĩa.
– Bùi Phụ Nghiệp, đỗ thứ 7, người thôn Thu Phố, huyện Chương Nghĩa.
– Nguyễn Tạo, đỗ thứ 9, người thôn Xuân Phổ, huyện Chương Nghĩa.
– Lê Văn Duy, đỗ thứ 10, người thôn Bồ Đề, huyện Mộ Đức.
Trên danh nghĩa, Trường thi Bình Định đã đóng góp cho nền Nho học 23 khoa thi Hương, nhưng trên thực tế chỉ có 22 lần thi tại Trường Bình Định. Vì lần thi cuối cùng, khoa Mậu Ngọ (1918), sĩ từ miền này phải vác liều chõng ra Huế ứng thí tại Trường Thừa Thiên. Nhưng danh sách thí sinh, hạn ngạch lấy đỗ và bảng trúng tuyển đều lập riêng, không dính dự gì đến sĩ tử Trường Thừa Thiên.
Số chỉ định trúng tuyển Cử nhân ở Trường thi Bình Định, mỗi khóa 13 người. Quy định ấy, giữ đúng được 3 khóa đầu, kể từ lần thứ 4, tức khoa Đinh Mão (1867), không còn tuân thủ nữa.
Tổng kết, dưới thời nhà Nguyễn, trên toàn cõi Việt Nam có 48 lần mở khoa thi Hương (1807 – 1918). Riêng Trường thi Bình Định tham dự 23 khoa (1852 – 1918), cung cấp cho đất nước 355 Cử nhân Hán học. Trong đó, Bình Định 186 người, có 12 Giải nguyên và 10 Á nguyên. Quảng Ngãi 104 người, có 11 Giải nguyên và 9 Á nguyên. Phú Yên 22 người, có 1 Á nguyên. Khánh Hòa 7 người. Ninh Thuận 3 người. Bình Thuận 11 người, có 1 Á nguyên. Và sĩ tử các vùng khác tạm trú tại vùng này đỗ 22 người, có 2 Á nguyên. Đó là trường hợp con của các quan theo cha đến lỵ sở, công chức đang làm việc.
Người Quảng Ngãi đầu tiên xuất thân từ Trường thi Bình Định là Cử nhân Phan Văn Điển đỗ thứ 2/13, khoa Nhâm Tý (1852). Và người Quảng Ngãi dẫn đầu ở khoa cuối cùng của Trường thi Bình Định là Cử nhân Phạm Trinh đỗ thứ 1/12, khoa Mậu Ngọ (1918).
Với sĩ tử Quảng Ngãi cũng có những khoa thi đáng ghi nhớ: Khoa Canh Tý (1900), Trường Bình Định lấy đỗ 24 Cử nhân, Quảng Ngãi chiếm 10 người, nhiều nhất.
Nhưng đến khoa Ất Mão (1915), Trường Bình Định lấy đỗ 18 cử nhân, Quảng Ngãi chỉ có 1 người trúng tuyển; và khoa Ất Dậu (1885) sĩ tử Quảng Ngãi bỏ thi khi nghe tin Kinh đô thất thủ. Thành tích đáng kể hơn hết là bốn khoa: Mậu Thìn (1868), Canh Ngọ (1870), Đinh Dậu (1897) và Canh Tý (1900) Quảng Ngãi đạt vẻ vang nhất, chiếm cả Giải nguyên và Á nguyên.
Các quan tân khoa được vua ban áo mũ vào chầu quan tỉnh tạ ơn tại trường thi Nam Định
Trở lại với Trường thi Bình Định, những người đỗ Cử nhân trẻ nhất là các ông: Văn Vĩ người thôn Hữu Pháp, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định, đỗ hạng 12/12 khoa Mậu Ngọ (1918), lúc 16 tuổi. Rồi đến Trần Quý Hàm người thôn Tri Thiện, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định, đậu Á nguyên (2/24) năm Bính Ngọ (1906), lúc 18 tuổi. Và Nguyễn Thuyên người thôn Nam An, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, đỗ thứ 20/24 khoa Bính Ngọ (1906), lúc 20 tuổi.
Những người lớn tuổi nhất còn vác liều chõng đi thi và đỗ Cử nhân ở Trường thi Bình Định là các ông: Phan Hành người thôn Biểu Chánh, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định, đỗ hạng 8/18 ở khoa Quý Mão (1903), lúc 55 tuổi. Võ Văn Quý người huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi, đỗ hạng 4/19 ở khoa Giáp Ngọ (1894), lúc 53 tuổi. Và Đinh Hữu Quang người thôn Hưng Lạc, huyện Phù My, tỉnh Bình Định, đỗ hạng 13/19 cũng khoa Giáp Ngọ, lúc 52 tuổi.
Trường thi Bình Định có những khoa thi mà danh sách thí sinh trúng tuyển khi bộ duyệt lại, phải thay đổi ở giờ chót: hoặc bị truất bớt, hoặc được thêm vào. Xem ra việc chọn người trúng tuyển ngày xưa rất cẩn trọng, phải qua hai lần duyệt xét, ở trường thi và ở trung ương, mới được chính thức đỗ.
– Bộ truất vì có bài bị điểm liệt: Khoa thi Mậu Thìn (1868), Trường thi Bình Định do Bố chánh Quảng Yên là Lê Hữu Tá làm Chủ khảo, Toản tu Sử quán Phạm Quý Đức làm Phó Chủ khảo, đã lấy 18 người vào bảng Cử nhân. Bộ duyệt lại thấy Nguyễn Lương, Phạm Khởi và Lê Văn Cơ có bài bị điểm liệt, nên chỉ cho đậu Tú tài. Bảng Cử nhân chỉ có 15 người chính thức đậu.
– Bộ truất vì không có bài được điểm bình trở lên: Khoa thi năm Bính Tý (1876) ban Giám khảo trường Bình Định lập danh sách trúng tuyển là 15 người. Bộ duyệt lại, truất ba người cuối bảng Cử nhân là Nguyễn Bá Đệ, Trịnh Hữu Bằng và Trần Quang Khởi, chỉ cho đỗ Tú tài, vì thấy trong quyển thi không có điểm ưu hoặc bình.
– Bộ đánh hỏng vì bài trùng nhau: Việc xét duyệt ở bộ, không chỉ thông qua các số điểm ban Giám khảo đã cho, mà còn xét rất kỹ từng bài thi. Chẳng hạn, khoa Kỷ Dậu (1909), Trường Bình Định do Tham tri bộ Học Đặng Như Vọng làm Chủ khảo và Tế tửu Quốc Tử giám Trần Tấn Ích làm Phó Chủ khảo, lấy đỗ 18 người. Bộ duyệt thấy bài kỳ nhất (môn văn sách) của Lê Toại (đậu thứ 15) và Đoàn Văn Mân (đỗ thứ 17) có ba bài trùng nhau và ba bài nhiều đoạn giống nhau nên đánh rớt cả hai.
– Bộ truất vì bài thi có dấu lạ: Khoa thi Nhâm Tý (1912), Tham tri bộ Lại Trần Trạm và Đốc học trường Hậu bổ Nguyễn Duy Tích được cử làm Chánh, Phó Chủ khảo Trường Bình Định, đã xếp Trần Tuân vào bảng Cử nhân và Vũ Liêm Sơn vào bảng Tú tài. Bộ duyệt lại, thấy quyển thi kỳ nhất của Trần Tuân, trong bài văn sách thứ tư ở trên chữ “đệ” có một dấu mực. Theo luật trường thi, phạm phải lỗi thiệp tích, tức là lỗi làm dấu bài để thông đồng với giám khảo. Dù là vết mực vô tình cũng quy tội, nên bộ giáng Trần Tuân xuống bảng Tú tài. Nhưng không phải lúc nào bộ cũng tìm cách bắt lỗi thí sinh mà ban Giám khảo không thấy hoặc đã bỏ qua. Bộ còn duyệt xét vớt, hoặc ân giảm vài trường hợp:
– Bộ vớt vì có một bài điểm cao. Đó là trường hợp của Vũ Liêm Sơn ở khoa Nhâm Tý (1912), điểm hạn ngạch chỉ được đậu Tú tài, nhưng kỳ thi chữ Pháp có điểm trội hơn những người Tú tài khác, nên bộ vớt lên cho đậu cuối bảng Cử nhân.
– Bộ còn gia ân cho trường hợp của Phạm Thiếu Am, huyện An Phước, tỉnh Ninh Thuận, thi khoa Kỷ Dậu (1909). Bài làm kỳ thứ 3 và kỳ phúc hạch (kỳ 4), chữ viết không giống nhau, nghi là có kẻ làm dùm bài. Nhưng được biết đương sự vừa thi xong thì ngã bệnh, sau khi nghe tin đỗ thứ 16 thì bệnh trở nặng và đã chết, nên bộ gia ân miễn xét, vẫn để cuối bảng Cử nhân y như ban Giám khảo đã xếp hạng.
Lễ xướng danh trường thi Nam Định năm Mậu Tý 1888 cho các thí sinh trúng tuyển làm cử nhân
III – TRƯỜNG THI TRONG LỊCH SỬ
Trước tình thế căn thẳng của đất nước, Pháp luôn luôn tìm cớ chiếm nốt 3 tỉnh Miền Tây Nam Kỳ, trong cuộc họp các quan đại thần vào những ngày đầu năm Ất Sửu (tháng 2-1865), triều đình quyết định bỏ hẳn ý định dành lại 3 tỉnh Miền Đông. Từ nay chỉ dồn lực lượng giữ các tỉnh còn lại.
Đáp ứng với nhu cầu quốc phòng, tháng giêng năm Đinh Mão (1867), Tự Đức thứ 20, Trường thi Bình Định bắt đầu mở khoa thi Hương võ. Địa điểm thiết lập trường thi Hương võ không xa với trường thi Hương văn, chỉ cách ba thôn về phía tây và vẫn nằm bên hữu ngạn Nam Phái sông Côn. Đó là thôn An Thành, cùng tổng, huyện với thôn Hòa Nghi (thi Hương văn), nhưng nay An Thành thuộc xã Nhơn Lộc. Địa bàn thu nhận thí sinh Hương võ của trường cũng từ Quảng Ngãi đến Bình Thuận và cũng theo lệ ba năm một lần mở khoa thi. Như vậy, chỉ sau Hương văn 3 khoa, Hương võ Bình Định đã cung cấp cho đất nước nhiều võ quan, trong giai đoạn dầu sôi lửa bỏng. Trường thi Bình Định lại một lần nữa không hổ danh, vì đã xây cất từ miền đất mang truyền thống thượng võ:
Biến cố ở kinh đô đã kích thích lòng yêu nước của các sĩ tử. Bài Vịnh Sĩ Tử Ở Trường Thi Bình Định của tân khoa Mai Xuân Thưởng phản ánh rõ nét:
Vậy, Mai Xuân Thưởng là ai, đã để lại những gì trong trang sử chống ngoại xâm của nước nhà?
Nhớ lại, khoa thi năm ấy, Trường thi Bình Định do Bố chánh Quảng Nam Bùi Tiến Tiên làm Chủ khảo nằm mộng thấy một bà lão đem biếu ông một cành mai mà chỉ có một bông nở to, nhụy vàng cánh trắng, tỏa hương dịu dàng thơm phức. Quan đỡ lấy nhành mai, đoá hoa độc nhất ấy rụng vào nghiên son và bà lão biến mất. Tỉnh dậy, ông suy nghĩ mãi về điềm mộng ấy. Ông bèn xem trong danh sách trúng tuyển Cử nhân, thấy có một người họ Mai, đó là Mai Xuân Thưởng. Xem lại quyển thi, quả thấy văn chương có khí phách, đoán rằng người này sẽ làm nên nghiệp lớn.
Ngày xướng danh, quan Chủ khảo mời riêng Mai công vào phòng, nhắn nhủ: “Lúc này nước nhà còn hay mất, phần lớn là do nơi đám sĩ phu. Làm việc phải hết sức thận trọng.”
Khi ban áo mão cho các vị tân khoa, quan Chủ khảo tặng một bài thơ:
Trước tình thế căn thẳng của đất nước, Pháp luôn luôn tìm cớ chiếm nốt 3 tỉnh Miền Tây Nam Kỳ, trong cuộc họp các quan đại thần vào những ngày đầu năm Ất Sửu (tháng 2-1865), triều đình quyết định bỏ hẳn ý định dành lại 3 tỉnh Miền Đông. Từ nay chỉ dồn lực lượng giữ các tỉnh còn lại.
Đáp ứng với nhu cầu quốc phòng, tháng giêng năm Đinh Mão (1867), Tự Đức thứ 20, Trường thi Bình Định bắt đầu mở khoa thi Hương võ. Địa điểm thiết lập trường thi Hương võ không xa với trường thi Hương văn, chỉ cách ba thôn về phía tây và vẫn nằm bên hữu ngạn Nam Phái sông Côn. Đó là thôn An Thành, cùng tổng, huyện với thôn Hòa Nghi (thi Hương văn), nhưng nay An Thành thuộc xã Nhơn Lộc. Địa bàn thu nhận thí sinh Hương võ của trường cũng từ Quảng Ngãi đến Bình Thuận và cũng theo lệ ba năm một lần mở khoa thi. Như vậy, chỉ sau Hương văn 3 khoa, Hương võ Bình Định đã cung cấp cho đất nước nhiều võ quan, trong giai đoạn dầu sôi lửa bỏng. Trường thi Bình Định lại một lần nữa không hổ danh, vì đã xây cất từ miền đất mang truyền thống thượng võ:
Ai về Bình Định mà coi
Con gái Bình Định múa roi, đi quyền.
(Ca dao)
Thế rồi, khoa thi Hương năm Ất Dậu (1885), các trường thi khác chưa đến ngày mở khoa, duy có Trường Bình Định đang thi, bỗng nghe hung tin Kinh đô thất thủ, vua Hàm Nghi bôn đào. Hội đồng Giám khảo quyết định tiếp tục thi cho xong. Tuy nhiên tinh thần sĩ tử không còn hăng hái nữa. Bảng đã yết kết quả kỳ nhất, thí sinh Quảng Ngãi vẫn kéo nhau ra về hết, chỉ còn lại sĩ tử Bình Định và một số ít các tỉnh khác ở nán lại, tiếp tục thi. Vào phúc hạch chỉ có 8 người đều đậu cả.Biến cố ở kinh đô đã kích thích lòng yêu nước của các sĩ tử. Bài Vịnh Sĩ Tử Ở Trường Thi Bình Định của tân khoa Mai Xuân Thưởng phản ánh rõ nét:
Cửa trường tiếng dạ vẫn còn hơi,
Cờ nghĩa treo lên đã ngất trời.
Đạo trọng vua tôi mình dám quản,
Oán hờn người Pháp có vơi đâu
(Khuyết danh dịch)
Vậy, Mai Xuân Thưởng là ai, đã để lại những gì trong trang sử chống ngoại xâm của nước nhà?
Nhớ lại, khoa thi năm ấy, Trường thi Bình Định do Bố chánh Quảng Nam Bùi Tiến Tiên làm Chủ khảo nằm mộng thấy một bà lão đem biếu ông một cành mai mà chỉ có một bông nở to, nhụy vàng cánh trắng, tỏa hương dịu dàng thơm phức. Quan đỡ lấy nhành mai, đoá hoa độc nhất ấy rụng vào nghiên son và bà lão biến mất. Tỉnh dậy, ông suy nghĩ mãi về điềm mộng ấy. Ông bèn xem trong danh sách trúng tuyển Cử nhân, thấy có một người họ Mai, đó là Mai Xuân Thưởng. Xem lại quyển thi, quả thấy văn chương có khí phách, đoán rằng người này sẽ làm nên nghiệp lớn.
Ngày xướng danh, quan Chủ khảo mời riêng Mai công vào phòng, nhắn nhủ: “Lúc này nước nhà còn hay mất, phần lớn là do nơi đám sĩ phu. Làm việc phải hết sức thận trọng.”
Khi ban áo mão cho các vị tân khoa, quan Chủ khảo tặng một bài thơ:
Sơn hà phong cảnh dị tiền niên,
山 河 風 景 異 前 年,
Hoành giám du khan thử địa huyền.
橫 鑑 蕕 看 此 地 懸。
Hận mãn xương môn trần ám ngoại,
恨 滿 昌 門 塵 暗 外,
Lệ linh văn viện bút đình biên.
淚 零 文 院 筆 停 邊。
Lịch triều giáo dục ân như hải
曆 朝 教 育 殷 如 海,
Bát giải thanh danh phẩm thị tiên.
八 解 聲 名 品 是 仙。
Nhất dự y quan nan tự hủy,
一 預 衣 冠 難 自 毀,
Cương thường khán thử cổ anh hiền.
綱 常 看 此 古 英 賢。
Bản dịch trong Nước Non Bình Định:
Non sông xưa đã khác rày,
Gương “hoành công khí” nơi này còn treo.
Cửa Rồng hận ngất trần hiêu.
Bút hoa tuôn lệ tiêu điều viện văn.
Lịch triều lai láng biển ân,
Dự hàng bát tuấn thêm phần thanh cao.
Áo xiêm trót đã buộc vào,
Cương thường noi dấu anh hào nghìn xưa.
Việc quan Chủ khảo nằm mộng, viết theo Quách Tấn, chỉ là chuyện tương truyền. Có điều chắc chắn là sau khi lãnh áo mão Cử nhân vinh qui bái tổ về làng, Mai Xuân Thưởng bắt tay ngay vào việc mộ quân ứng nghĩa và nhanh chóng trở thành lãnh tụ tài ba của Phong trào Cần Vương tỉnh Bình Định.
Quang cảnh trường thi Nam Định 1912
Hai mươi năm sau, 1905, trường thi Bình Định lại xảy ra một sự kiện cũng liên quan đến lịch sử, không những hâm nóng bầu nhiệt huyết của các sĩ tử ở Bình Định mà còn là “một tiếng sét đánh vang lừng cả nước” (lời Huỳnh Thúc Kháng), mở đầu cho phong trào Duy Tân Kháng Thuế ở Miền Trung (1908).
Năm ấy, ba vị đại khoa của tỉnh Quảng Nam là Trần Quí Cáp, Phan Chu Trinh và Huỳnh Thúc Kháng, cũng là ba nhà chí sĩ cách mạng, rủ nhau vào Nam tìm đồng chí. Lúc đi ngang qua Bình Định, ông Trần có quen với Nguyễn Quý Anh, con của học giả Nguyễn Thông hiện cư ngụ tại tỉnh này nên ghé lại thăm. Nhân lúc quan Bình Định mở kỳ thi tuyển sinh, chuẩn bị cho khóa thi Hương năm tới (1906), ba nhà chí sĩ muốn dùng đề thi của quan trường làm tiếng chuông cảnh tỉnh giới sĩ tử, đánh thức họ dậy, lo việc cứu nước, không nên đắm mãi trong giấc mộng khoa cử lỗi thời.
Hôm thi kỳ hai, sĩ tử đông đến sáu bảy trăm người. Viên Đốc học Bình Định là Hồ Trung Lượng, người huyện Duy Xuyên (Quảng Nam) đỗ Tiến sĩ 1892, vì nhà có tang nên không thể chủ trì cuộc thi, quan đầu tỉnh phải thay thế. Nhân cơ hội ấy, ba chí sĩ giả dạng sĩ tử chen vào trường thi, chia nhau hành động. Ông Trần làm đề phú, ông Phan làm đề thơ, ông Huỳnh lo việc xem xét tình hình. Bài làm, lấy một tên chung là Đào Mộng Giác, với ý nghĩa là đã tỉnh mộng. Quan trường ra đề phú là Lương Ngọc Danh Sơn, lấy vần “Cầu lương ngọc tất danh sơn” (tìm ngọc quý ở nơi núi đẹp có tiếng) và đề bài thơ là Chí Thành Thông Thánh (lòng chí thành, thấu suốt đạo thánh), diễn ra thất ngôn bát cú Đường luật. Hai ông đã nạp quyển như bao nhiêu thí sinh khác, nhưng văn không khai triển đầu bài, chỉ nhắm vào ý hướng khơi dậy lòng yêu nước, khuyên sĩ tử nên bỏ lối học cử nghiệp và mộng làm quan. Xong việc, cả ba ông vội lên đường, rời khỏi Bình Định.
Chấm quyển thi Đào Mộng Giác, quan trường sững sốt, choáng váng trước việc chẳng lành, nhưng không thể dấu nhẹm vì tin tức đã loan khắp. Các quan đành phải đệ quyển thi ấy về triều và khấu đầu chịu tội. Quan đầu tỉnh giận lắm, thét lính bủa vây, buộc phải tìm cho ra thủ phạm. Khổ cho đám sĩ tử vô tội, nhất là những thí sinh họ Đào bị nghi ngờ xét hỏi đủ điều. Người ta nhắm vào nhóm họ Đào làng Vinh Thạnh (của Đào Tấn) và nhóm họ Đào làng Biểu Chánh (của Đào Phan Duân) vì hai phái Đào này có nhiều người theo cử nghiệp. Trong khi ấy, ba chí sĩ đã vượt địa giới Bình Định, đang thong dong qua Phú Yên, trên đường vào Nam.
Sau đó, ông Trần Quí Cáp dịch ra Việt văn cả hai bài ấy, rồi nhờ ông Hồ Thanh Vân bí mật đem ra Bắc, chuyển cho Nguyễn Hải Thần để truyền bá trong đám nho sĩ Bắc Hà. Nguyên văn bài Chí Thành Thông Thánh (至誠通聖) của Phan Châu Trinh:
Thế sự hồi đầu dĩ nhất không,
世 事 迴 頭 已 一 空,
Giang sơn vô lệ khấp anh hùng.
江 山 無 淚 泣 英 雄。
Vạn dân nô lệ cường quyền hạ,
萬 民 奴 隸 強 權 下,
Bát cổ văn chương thụy mộng trung.
八 股 文 章 睡 夢 中。
Trường thử bánh niên cam thóa mạ,
長 此 百 年 甘 唾 罵,
Bất tri hà nhật xuất lao lung.
不 知 何 日 出 牢 籠。
Chư quân vị tất vô tâm huyết,
諸 君 未 必 無 心 血,
Thỉnh hướng tư văn khán nhất thông.
請 向 斯 文 看 一 通。
Trần Quí Cáp dịch:
Ngoảnh lại giang sơn luống lửng lơ,
Anh hùng rầu rĩ khóc người sơ.
Muôn dân tôi tớ phường quyền mạnh,
Tám vế văn chương giấc ngủ mơ.
Dày mặt mỉa mai đành chịu mãi,
Thoát thân trói buộc biết bao giờ.
Người ta ai cũng tâm can ấy,
Nghĩ đến văn này đã thấm chưa?
Bài thơ trên và bài phú dưới đây, hiện nay có nhiều bản dịch hay hơn bản dịch của Trần Quí Cáp, nhưng bản đầu tiên vẫn có giá trị lịch sử, vì đã được các nhà chí sĩ thuở ấy bí mật phổ biến khắp nơi.
Nguyên tác bài Lương Ngọc Danh Sơn Phú (良 玉 名 山 賦) có 6 vần, gồm 38 câu bằng Hán văn. Tác giả đã dịch ra Việt văn bằng thể thơ song thất lục bát, cả thảy 84 câu. Dưới đây là đoạn đầu và đoạn cuối:
Kìa Châu Á trong vòng hoàn hải,
Khi đồng bào vác nỗi mây tuôn,
Ngắm xem một cõi dinh hoàn,
Đều trông thấy kẻ lo buồn xiết bao.
Việc thế sự xôn xao sóng bể,
Mặt anh hùng rầu rĩ non sông,
Nói ra ai chẳng thẹn thuồng,
Sao ta cứ một cái lòng thế thôi?
Sực thấy chữ tương lai mà sợ,
Còn mơ màng giấc ngủ như không.
Ai ôi đứng dậy mà trông,
Nước ta một góc Á Đông kém gì!
Trên Hồng Lạc dưới thì Trần Lý,
Kể nhơn tâm sĩ khí ai bì.
Kìa xem Lãnh Biểu xưa kia,
Mã Nhi thuở nọ còn bia đành rành.
Một trận đánh Chiêm Thành đã khiếp.
Bấy nhiêu năm Chân Lạp mở cương.
Nước ta xưa vẫn phú cường
Những điều hay lạ có nhường chi ai.
. . . . . . . . . . . . . . .
Việc nhơn thế thử coi mà gẫm,
Vận tang thương một bóng xanh xanh.
Trời Nam bể Sở mông mênh,
Cái thân chích địa nghĩ mình xót xa.
Nhìn thu lạnh sương sa lác đác,
Cửa thần môn lén bước, buớc ra.
Ngất trời một giải xa xa,
Thuyền tiên trông đã vượt ra non thần.
Bến Dịch Thủy chần ngần đứng nghỉ,
Tiễn đưa người giọt lụy chứa chan.
Một lời như khóc, như than.
Thôi còn Lương Ngọc, Danh Sơn làm gì?
IV – GÓP VÀO ĐẤT NƯỚC
Điều đáng nói là trường thi Bình Định đã đóng góp cho đất nước những anh hùng cứu nước, những nhân tài, những bậc đại khoa.
1 – Ứng nghĩa Cần Vương:
Các thủ lãnh của Phong trào Cần Vương (1885) ở các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa hầu hết xuất thân từ trường thi Bình Định:
– Lê Trung Đình (1863 – 1885) đỗ Cử nhân thứ 17 khoa Giáp Thân (1884), người thôn Phú Nhơn, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, nay thuộc xã Tịnh Ấn, huyện Sơn Tịnh, là lãnh tụ Phong trào Cần Vương tỉnh Quảng Ngãi.
Lê Trung Đình
– Nguyễn Tự Tân (? – 1885), đỗ Tú tài, người thôn Phước Thọ, huyện Bình Sơn, cùng Lê Trung Đình và Vũ Hội dựng cờ khởi nghĩa, chiếm tỉnh thành Quảng Ngãi được 5 ngày.
– Nguyễn Duy Cung (1843 – 1885) đỗ Á nguyên khoa Mậu Thìn (1868), người thôn Vạn Tượng, huyện Chương Nghĩa [5]; sau là thôn Vạn Tượng, xã Nghĩa Dõng [6], huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi; nay thuộc thị xã Quảng Ngãi. Ông từ bỏ chức Án sát Bình Định, gia nhập cuộc ứng nghĩa Cần Vương ở tỉnh này, làm tham mưu cho nguyên Tổng đốc Đào Doãn Địch.
– Mai Xuân Thưởng (1860 – 1887), đỗ Cử nhân thứ 7 khoa Ất Dậu (1885), người làng Phú Lạc, tổng Thời Hòa, huyện Tuy Viễn, phủ An Nhơn tỉnh Bình Định, nay là thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn (quận Bình Khê cũ). Ông là lãnh tụ Cần Vương của tỉnh nhà, có óc tổ chức, có tài thao lược. Từ hai bàn tay trắng, tiếp nhận 600 quân của Đào Doãn Địch, ông đã phát triển thành lực lượng kháng chiến hùng hậu, với các chiến khu vững chắc như Lộc Đỗng, Linh Đỗng và thứ Hương Sơn.
– Nguyễn Trọng Trì (1854 – 1922), đỗ Cử nhân thứ 8 khoa Bính Tý (1876), người thôn Vân Sơn, tổng Thời Đôn, huyện Tuy Viễn, phủ An Nhơn, nay là thôn Vân Sơn, xã Nhơn Hậu, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Ông giữ chức Hiệp trấn thứ Hương Sơn trong lực lượng Cần Vương của Mai Xuân Thưởng.
Nguyễn Trọng Trì
– Võ Phong Mậu, đỗ Cử nhân thứ 5 khoa Qúy Dậu (1873), người thôn Kiên Phụng, tổng Thời Hòa, huyện Tuy Viễn, phủ An Nhơn tỉnh Bình Định, nay là thôn Thuận Hạnh, xã Bình Thuận, huyện Tây Sơn (quận Bình Khê cũ), tỉnh Bình Định. Ông giữ chức Tham trấn thứ Hương Sơn, trong lực lượng của Mai Xuân Thưởng.
– Lê Thành Phương (1825 – 1887), đỗ Tú tài, là thủ lãnh Cần Vương nổi tiếng nhất của tỉnh Phú Yên, bản doanh đặt tại đèo Quán Cau, thuộc huyện Tuy An.
Lê Thành Phương
– Nguyễn Khanh, đỗ Tú tài, cùng với Trần Đường, Trịnh Phong ứng nghĩa Cần Vương ở Khánh Hòa. Ông được phong Tán tương Quân vụ, đóng quân tại trung tâm tỉnh, lo việc tuyển quân và tiếp tế lương thực cho hai mặt trận phía Bắc và phía Nam của tỉnh.
2 – Tham gia phong trào Duy Tân:
Việc chống sưu kháng thuế ở Miền Trung năm 1908, các thủ lãnh và ban chỉ đạo của phong trào phần lớn đều xuất thân từ Trường thi Bình Định.
Ở Quảng Ngãi, các Cử nhân đã lãnh đạo phong trào tại tỉnh nhà gồm có:
– Nguyễn Sụy (? – 1916) đỗ thứ 9 khoa Quý Mão (1903), người thôn Hổ Tiếu, huyện Chương Nghĩa, nay là xã Tư Nguyên, huyện Tư Nghĩa. Án khổ sai 9 năm, đày Côn Đảo. Năm 1916, tham gia cuộc khởi nghĩa Duy Tân, việc bại lộ, ông tự sát trong ngục [7].
– Lê Đình Cẩn (1870 – 1914), đỗ thứ 3, cùng khoa với Nguyễn Sụy. Ông người thôn Hòa Vinh, huyện Chương Nghĩa, sau thuộc xã Nghĩa Dõng, huyện Tư Nghĩa, nay thuộc thị xã Quảng Ngãi. Ông bị án đày Di Lăng, rồi Côn Đảo.
– Nguyễn Đình Quản, đỗ thứ 14 khoa Đinh Dậu (1897), người thôn Phong Niên, tỉnh Quảng Ngãi. Ông bị án chém, cải đày Côn Đảo và chết ở đó.
Nguyễn Đình Quản
– Nguyễn Mân, đỗ thứ 15, cùng khoa với Nguyễn Đình Quản, người thôn Kim Giao, tỉnh Quảng Ngãi, bị án đày Côn Đảo.
Các Tú tài người Quảng Ngãi, tham gia tích cực phong trào tại tỉnh nhà gồm có: Phạm Cao Chẩm và Nguyễn Tuyên, án khổ sai 9 năm đày Côn Đảo; Nguyễn Thoa, án khổ sai 9 năm; Trần Kỳ Phong (1873 – 1941) bị đày Côn Đảo.
Ở Bình Định các Cử nhân lãnh đạo phong trào gồm có:
– Hồ Sĩ Tạo (1869 – 1934), đỗ thứ 3 khoa Tân Mão (1891) và năm Giáp Thìn (1904) đậu Tiến sĩ. Người làng Hòa Cư, tổng Thời Đôn, huyện Tuy Viễn, phủ An Nhơn, tỉnh Bình Định; nay là thôn Hòa Cư, xã Nhơn Hưng, huyện An Nhơn. Ông bị án trảm quyết, cải trảm giam hậu khổ sai chung thân.
– Hồ Sĩ Tạo (1869 – 1934), đỗ thứ 3 khoa Tân Mão (1891) và năm Giáp Thìn (1904) đậu Tiến sĩ. Người làng Hòa Cư, tổng Thời Đôn, huyện Tuy Viễn, phủ An Nhơn, tỉnh Bình Định; nay là thôn Hòa Cư, xã Nhơn Hưng, huyện An Nhơn. Ông bị án trảm quyết, cải trảm giam hậu khổ sai chung thân.
Hồ Sĩ Tạo
– Lê Chuân (còn gọi là Truân, Quốc Triều Hương Khoa Lục, bản dịch), đỗ Giải nguyên khoa Bính Ngọ (1906), lúc 23 tuổi; người thôn Thanh Lương, tổng Trung, huyện Bồng Sơn, phủ Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định; nay thuộc xã Ân Tín, huyện Hoài Ân. Ông bị án xử 100 trượng, đày 3.000 dặm, cải khổ sai 9 năm.
– Nguyễn Du, đỗ thứ 6 khoa Đinh Dậu (1897), người thôn Đại Thuận, tổng Trung Bình, huyện Phù Mỹ, phủ Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định [8], nay thôn Đại An, xã Mỹ Hiệp, huyện Phù Mỹ, bị cách hết phẩm hàm chỉ còn bằng Cử nhân.
Các Tú tài tham gia phong trào gồm các ông: Bùi Phiên Dự, thôn Hòa Cư và Đặng Thành Tích, thôn Đại Bình đều thuộc huyện An Nhơn; Nguyễn Phát, thôn Dương Liễu và Lê Cương thôn An Lương, huyện Phù Mỹ; đều bị quan tỉnh Bùi Xuân Huyến đề nghị mức án từ giảo giam hậu đến phạt trượng rồi đày Côn Đảo.
3 – Các đóng góp khác:
a/ Trường thi Bình Định còn cống hiến một danh nhân văn hóa: ĐàoTấn (1845-1907), đỗ Cử nhân thứ 8, khoa Đinh Mão (1867), người thôn Vinh Thạnh, tổng Thời Tú, huyện Tuy Phước, phủ An Nhơn, tỉnh Bình Định, nay là thôn Vinh Thạnh, xã Phước Lộc, huyện Tuy Phước. Ông vừa là nhà thơ, nhà văn, vừa là nghệ sĩ viết tuồng, nhà lý luận sânkhấu. Nói đến nhân tài của tỉnh, người đời thường nhắc: “Bình Định có hai ông vua, Quang Trung vua võ, Đào Tấn vua văn.”
ĐàoTấn
b/ Trường thi Bình Định cũng là nơi khởi đầu của các bậc đại khoa như:
– Kiều Tòng, còn gọi là Kiều Lâm (1825 – ?), người thôn An Đại, huyện Chương Nghĩa, nay thuộc huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi. Ông đỗ Á nguyên khoa Ất Mão (1855), đỗ Tiến sĩ khoa Nhâm Tuất (1862), làm quan tới chức Bang biện Ngãi Định.
– Phan Văn Hành (1847 – ?) người thôn Thuận Phước, xã Bình Phước, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Ông đỗ Giải nguyên khoa Bính Tý (1876), đỗ Phó bảng khoa Đinh Sửu (1877), chưa kịp làm quan.
– Đỗ Quân (1869 – ?) người thôn Châu Sa, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, đỗ Á nguyên khoa Tân Mão (1891), đỗ Hội nguyên Tiến sĩ khoa Ất Mùi (1895). Ông là cháu nội của Phó bảng Đỗ Đăng Đệ.
– Hồ Sĩ Tạo, đã nói ở phần trên.
– Đào Phan Duân (1864 – 1947) người thôn Biểu Chánh, xã Phước Hưng, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định, đỗ Cử nhân thứ 6 khoa Giáp Ngọ (1894), đỗ Phó bảng năm Ất Mùi (1895) lúc 31 tuổi. Làm quan đến chức Tuần phủ, lấy đức giáo hóa dân, không chịu sự xúc phạm của viên Công sứ Khánh Hòa, ông cãi lại rồi xô ghế bỏ quan về nhà, sáng lập Phước An Thương Hội, giữ chức cố vấn tối cao.
Đào Phan Duân
V – SĨ TỬ TRANH TÀI
1/ Mặc dù thường xuyên có sĩ tử của năm tỉnh dự thi, nhưng chỉ có Quảng Ngãi và Bình Định tranh nhau thủ khoa. Suốt ba khoa thi đầu là Nhâm Tý (1852), Ất Mão (1855) và Mậu Ngọ (1858), Giải nguyên đều về tay người Bình Định, đó là Cao Văn Tuấn người thôn Thắng Công, huyện Tuy Viễn, nay thuộc xã Nhơn Phúc huyện, An Nhơn (khoa 1); Nguyễn Đăng Tuyển người thôn Chánh Trạch, huyện Phù Mỹ (khoa 2); Nguyễn Duy Lộc người thôn Xuân An, huyện Phù Cát (khoa 3). Sự bất quá tam, Bình Định đoạt thủ khoa 3 lần, trong khi Quảng Ngãi cố tranh sát nút nhưng chỉ đỗ Á nguyên ba lần, đó là Phan Văn Điển người thôn An Thổ, huyện Mộ Đức (khoa 1), Kiều Tòng người thôn An Đại, huyện Chương Nghĩa (khoa 2); Phạm Thúc người thôn Trà Bình, huyện Bình Sơn (khoa 3). Sự việc ấy còn ghi lại trong câu ca dao của vùng:
Tiếc công Quảng Ngãi đường xa
Để cho Bình Định thủ khoa ba lần.
Đến khoa thứ 4, năm Đinh Mão (1867), Bình Định chẳng những đoạt cả Giải nguyên, Á nguyên, đó là Lê Đăng Đệ và Nguyễn Tạo cùng ở huyện Phù Cát; mà còn chiếm liên tục đến hạng 8, Quảng Ngãi chỉ chen được vị thứ 9, rồi liên tục từ 10 đến 13 lại là người Bình Định, lập thành tích Bình Định 14, Quảng Ngãi 4.
Bị thua liên tiếp 4 khoa, sĩ tử Quảng Ngãi quyết tâm vùng lên. Họ đã thành công rực rỡ ở hai khoa liền (5 và 6) mang lại vinh dự cho tỉnh nhà. Đó là khoa Mậu Thìn (1868), Nguyễn Luật người thôn Mỹ Khê, huyện Bình Sơn, đoạt Giải nguyên và Nguyễn Duy Cung người thôn Vạn Tượng, huyện Chương Nghĩa, chiếm Á nguyên. Tiếp khoa Canh Ngọ (1870), Trương Đăng Tuyển người thôn Phú Nhơn, huyện Bình Sơn và Phạm Viết Duy người thôn Chánh Mông, huyện Chương Nghĩa, đoạt cả giải nhất nhì và Quảng
Ngãi còn vượt trội tỷ số đậu. Lúc bấy giờ ca dao có câu:
Tiếc công Bình Định xây thành
Để cho Quảng Ngãi vô giành thủ khoa. [9]
Sau đó, Bình Định và Quảng Ngãi còn liên tiếp tranh nhau ngôi thứ và tỷ số thêm 17 khoa nữa, cho đến khi chấm dứt vào năm 1918.
2/ Trong các khoa thi ở Trường Bình Định, hai khoa Tân Mão (1891), lần thứ 14 và Giáp Ngọ (1894) lần thứ 15 là vui vẻ nhất vì cả năm tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa và Bình Thuận (lúc đó chưa lập tỉnh Ninh Thuận) đều có người thi đỗ Cử nhân, còn hai giải nhất nhì chia đều cho Bình Định và Quảng Ngãi. Dù vậy vẫn có câu: “Một tỉnh Khánh Hòa không bằng một nhà Hưng Lạc”, bởi khoa Giáp Ngọ (1894), ở Bình Định tại thôn Hưng Lạc (thời Minh Mạng gọi là Hưng Long) xã Mỹ Thành, huyện Phù Mỹ có nhà họ Đinh, cha con cùng thi và cùng đỗ Cử nhân. Cha là Đinh Hữu Quang, 52 tuổi, đậu thứ 13; con là Đinh Trọng Cát, 22 tuổi, đậu thứ 15; cũng khoa đó, Khánh Hòa chỉ đỗ có 1 người, ở hạng thứ 19 là Phạm Tấn, người huyện Tân Định.
Quảng Ngãi cũng có trường hợp tương tự, vào khoa Mậu Thìn (1868), trường thi Bình Định tuyển 15 Cử nhân, gồm 8 người Bình Định và 7 người Quảng Ngãi, các tỉnh khác không ai đỗ. Ở xã Vạn Tượng, huyện Chương Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi có anh em cùng đỗ cao, em là Nguyễn Duy Cung đoạt Á nguyên, anh là Nguyễn Tấn Phó trúng hạng 4.
VI – MỘT THỜI ĐÃ QUA
Những ngày huy hoàng của nền Nho học rồi cũng tắt. Ngày 21- 12- 1917, Toàn quyền Đông Dương Albert Sarraut ra nghị định ban hành “Quy chế chung về ngành giáo dục ở Đông Dương,” thường gọi là “Học Chính Tổng Quy,” áp dụng nền giáo dục Pháp Việt trên toàn cõi Đông Dương. Ở Miền Bắc, sau khoa Ất Mão (1915) là chấm dứt nền Hán học. Còn ở Miền Trung, gắng gượng một kỳ thi Hương nữa, tức khoa Mậu Ngọ (1918), rồi cũng vĩnh viễn cáo chung. Trường thi Bình Định, mới có 68 tuổi đời (1850-1918), cũng chịu chung số phận như các trường thi khác.
Đã một thời, trường thi này cũng cờ lọng rợp trời, đi đầu là cờ biển vua ban, biểu tượng cho quyền hành và chức vụ của Hội đồng giám khảo. Có hai thớt voi đi kèm, đầy đủ yên bệ, đoàn quân nhạc rập rình xen lẫn tiếng trống, tiếng cồng, vang dội một vùng.
Quảng Ngãi cũng có trường hợp tương tự, vào khoa Mậu Thìn (1868), trường thi Bình Định tuyển 15 Cử nhân, gồm 8 người Bình Định và 7 người Quảng Ngãi, các tỉnh khác không ai đỗ. Ở xã Vạn Tượng, huyện Chương Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi có anh em cùng đỗ cao, em là Nguyễn Duy Cung đoạt Á nguyên, anh là Nguyễn Tấn Phó trúng hạng 4.
Ngày có kết quả, người có nhiệm vụ xướng danh các sĩ tử đỗ đạt sẽ cầm một chiếc loa, đứng trên cao và đọc to họ tên, quê quán của từng người.
Xướng danh những người trúng tuyển.
Cả sĩ tử và thân nhân đều đến nghe xướng danh.
Những ngày huy hoàng của nền Nho học rồi cũng tắt. Ngày 21- 12- 1917, Toàn quyền Đông Dương Albert Sarraut ra nghị định ban hành “Quy chế chung về ngành giáo dục ở Đông Dương,” thường gọi là “Học Chính Tổng Quy,” áp dụng nền giáo dục Pháp Việt trên toàn cõi Đông Dương. Ở Miền Bắc, sau khoa Ất Mão (1915) là chấm dứt nền Hán học. Còn ở Miền Trung, gắng gượng một kỳ thi Hương nữa, tức khoa Mậu Ngọ (1918), rồi cũng vĩnh viễn cáo chung. Trường thi Bình Định, mới có 68 tuổi đời (1850-1918), cũng chịu chung số phận như các trường thi khác.
Đã một thời, trường thi này cũng cờ lọng rợp trời, đi đầu là cờ biển vua ban, biểu tượng cho quyền hành và chức vụ của Hội đồng giám khảo. Có hai thớt voi đi kèm, đầy đủ yên bệ, đoàn quân nhạc rập rình xen lẫn tiếng trống, tiếng cồng, vang dội một vùng.
Lều chõng đi thi
Chòi canh, trường Nam Định, thi Hương khoa Đinh Dậu 1897
Quan bắc loa gọi tên thí sinh vào trường thi
Các quan trường triều phục chỉnh tề ngồi trên kiệu, có lính hầu, tàn che, lọng rủ. Còn sĩ tử, từ nửa đêm đã vác lều chõng đứng đợi gọi tên vào vi dành cho thí sinh.
Ngày xướng danh còn long trọng hơn nữa. Trên khán đài có đủ mặt hội đồng quan trường và các quan lớn, nhỏ thuộc vùng đến dự. Các sĩ tử, cùng thân nhân, bè bạn, đến nghe xướng danh, đứng chật khán đài.
Lễ Xướng danh cử nhân khoa Đinh Dậu (1897) trường Hà Nam
Trên chòi cao, vị Truyền lệnh sứ bắc loa gọi từng người đỗ Cử nhân, đủ cả tên họ, tuổi tác, quê quán. Chẳng hạn, khoa thi Hương năm Bính Tý (1876), tại trường thi Bình Định, ông Phạm Văn Hành, 30 tuổi, người xã Thuận Phước, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, đỗ Giải nguyên. Vị Truyền lệnh sứ xướng danh là:“Cử nhân Đệ Nhất danh Phạm Văn Hành, niên canh tam thập tuế, quán tại Thuận Phước xã, Bình Sơn huyện, Quảng Ngãi tỉnh.”
Từ trong đám đông, vị thủ khoa lên tiếng “dạ” lớn, lách mình tiến đến khán đài trình diện, rồi được ban áo mão cân đai và tàn lọng, trước sự trầm trồ ngưỡng mộ của mọi người.
Xong, tiếp tục xướng danh: Cử nhân Đệ Nhị danh…, rồi Cử nhân Đệ Tam danh…
Đàm đông tụ tập nghe xướng danh người trúng tuyển trong kỳ thi Hương Nam Định năm 1897
Thí sinh trúng tuyển diễu hành qua các giám khảo, Nam Định năm 1897. - Ảnh: Bùi Ngọc Long chụp lại từ tư liệu
Thi đỗ, không những bản thân vị tân khoa được vinh dự mà thầy dạy học, cha mẹ, vợ con và họ hàng cũng được vẻ vang. Đúng với câu “dương thanh danh, hiển phụ mẫu.” Vì vậy, sự mến chuộng học hành đã trở thành truyền thống của dân tộc. Quan niệm “nhất sĩ nhì nông” đã ăn sâu vào lòng người, thể hiện qua câu ca dao:
Chẳng tham ruộng cả ao liền,
Tham vì cái bút cái nghiên anh đồ.
Các tân khoa đến bái tạ tại Vọng Cung ở Nam Định 1897
Các tân khoa cảm tạ Tổng Ðốc Nam Ðịnh 1897.
Các tân khoa được rước đi dạo phố cho mọi người xem mặt.
Các tân khoa được Tổng đốc thay mặt nhà vua ban yến.
Thời ấy, mỗi khoa thi kéo dài hơn một tháng. Người đi thi, kẻ đi xem, thêm gia nhân và quyến thuộc lên đến hàng vạn người. Quán xá tuy chỉ dựng tạm thời nhưng rộ như nấm mọc. Trong những ngày ấy, con đường từ xã Nhơn Hòa về thành Bình Định đến chợ Gò Chàm qua lối bến đò Trường Thi, trở nên phức tạp. Chàng trai phải đưa người yêu của mình tới tận bến sông, đợi nàng bước lên đò, mới yên tâm trở về nhà, vì:
Đưa em cho tới bến đò,
Kẻo em thơ dại, “học trò” phỉnh em.
(Ca dao)
Đó là khúc sông ôm choàng lấy thôn Hòa Nghi, một đoạn hình vòng cung trên dòng Nam phái sông Côn, mang tên Trường Thi; với bến đò Trường Thi cát trải vàng óng, nước sông trong xanh, đò ngang thưa khách. Phong cảnh nên thơ ấy, gợi cảm hứng cho nhà thơ Yến Lan (quê ở thành Bình Định) sáng tác bài Bến My Lăng, một thời nổi tiếng:
Bến My Lăng nằm không, thuyền đợi khách
Rượu hết rồi ông lái chẳng buồn câu.
Trăng thì dày rơi vàng trên mặt sách,
Ông lái buồn để gió lén mơn râu…
“Quê ngoại bên kia bãi cát vàng” (thơ Yến Lan). Ảnh: H.K.B
Vợ chồng nhà thơ Yến Lan bên Bến Trường Thi
Vợ chồng nhà thơ Yến Lan bên Bến Trường Thi
Bà Nguyễn Thị Lan, vợ nhà thơ Yến Lan, bên cầu Trường Thi. Ảnh: V.T 2008
Thời huy hoàng ấy đã qua rồi! Dấu vết Trường Thi Bình Định cũng đã phai mờ theo năm tháng. Các vị Cử nhân và Tú tài Hán học xuất thân từ trường này, dù ở khoa cuối cùng, cũng không một ai còn sống. Ngày nay, nếu không có người chỉ dẫn, không ai có thể biết được nơi đây, ngày xưa, chỉ mới 93 năm trước, còn là một cái nền khổng lồ vuông vức. Và cứ mỗi ba năm một lần, Triều đình tập hợp thí sinh sáu tỉnh [10] về đây để tuyển chọn hiền tài.
San Jose, ngày 4- 12- 2011
ĐÀO ĐỨC CHƯƠNG
GHI CHÚ
[1] Trường Thi Bình Định là trường cấp vùng, như Nam Định, Thanh Hóa, Nghệ An, Gia Định…, dùng để tổ chức thi Hương, lấy đỗ Cử nhân và Tú tài. Thời Hán học, chỉ ở Kinh đô mới mở thi Hội và thi Đình để lấy Tiến sĩ và phân Tam giáp, Tam khôi.
[2] Nguyên bản khắc thiếu một chữ sau chữ “An…”
[3] Đúng là Võ Văn Tịnh, nhưng nguyên bản khắc lầm là Võ Duy Tịnh.
[4] Dương Kinh Quốc; Việt Nam Những Sự Kiện Lịch Sử 1858- 1918 (Hà Nội, nxb Giáo Dục tái bản, 2001); trang 271:
– Ngày 20 tháng 5 năm 1901 Quyền Toàn quyền Đông Dương là Broni ký nghị định thành lập tỉnh Phan Rang, gồm phủ Ninh Thuận, huyện An Phước, huyện Tân Khai, đều được tách ra từ tỉnh Khánh Hòa. Tỉnh lỵ là Phan Rang.
– Ngày 9 tháng 2 năm 1913, Toàn quyền Đông Dương là Sarraut, Albert ký nghị định giải thể tỉnh Phan Rang, phần đất phía bắc của tỉnh sáp nhập vào Khánh Hòa, phần đất phía nam sáp nhập vào tỉnh Bình Thuận.
– Ngày 5 tháng 7 năm 1922, Toàn quyền Đông Dương là Long, Maurice ký nghị định tái lập tỉnh Phan Rang, gồm phủ Ninh Thuận và huyện người Chàm cư trú là An Phước. Vì vậy, Phan Rang còn được gọi là tỉnh Ninh Thuận.
[5] Theo Cao Xuân Dục, Quốc Triều Hương Khoa Lục, Nguyễn Duy Cung ở huyện Chương Nghĩa (nay là Tư Nghĩa); nhưng theo Nguyễn Q. Thắng và Nguyễn Bá Thế, Từ Điển Nhân Vật Lịch Sử Việt Nam, ông ở huyện Sơn Tịnh?
[6] Trước năm 1981, Nghĩa Dõng thuộc huyện Tư Nghĩa. Từ ngày 24- 8- 1981, Quyết Định số 41- HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng, ba xã của huyện Tư Nghĩa là Nghĩa Dõng, Nghĩa Lộ, Nghĩa Chánh (trừ xóm La Tà nhập vào xã Nghĩa Thương, huyện Tư Nghĩa) sáp nhập vào thị xã Quảng Ngãi và thuộc xã ngoại thành (Nguyễn Quang Ân, Việt Nam Những Thay Đổi Địa Danh Và Địa Giới Các Đơn Vị Hành Chính 1945- 1997, trang 312).
[7] Các bản án, căn cứ vào Châu Bản Triều Duy Tân, trong cuốn Phong Trào Kháng Thuế Miền Trung của Nguyễn Thế Anh và bổ túc bởi nhiều tài liệu khác.
[8] Nguyễn Thế Anh; Phong Trào Kháng Thuế Miền Trung Năm 1908 Qua Các Châu Bản Triều Duy Tân (Sài Gòn, Bộ Văn Hóa Giáo Dục và Thanh Niên xuất bản, 1973); trang 92, ghi là “thôn Phú Nông, phủ Hoài Nhơn”.
[9] Quách Tấn, Nước Non Bình Định, trang 337, cho rằng câu “Tiếc công Bình Định xây thành” có trước vì khoa đầu tiên của Trường thi Bình Định, năm Nhâm Tý (1852), người Quảng Ngãi giật thủ khoa. Ba khoa tiếp theo là khoa Ất Mão (1855), Mậu Ngọ (1858), Tân Dậu (1861), ngôi thủ khoa mới về tay người Bình Định nên câu “Tiếc công Quảng Ngãi đường xa” ra đời sau. Lập luận này trái với thực tế (hơn nữa, năm 1861, Trường Bình Định không mở thi, sĩ tử phải ra Thừa Thiên dự thí, thủ khoa là Trần Văn Chuẩn người Thừa Thiên) và không trùng khớp với kết quả thi cử trong Quốc Triều Hương Khoa Lục của Cao Xuân Dục.
[10] Sáu tỉnh gồm: Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
01/ CAO XUÂN DỤC; Quốc Triều Hương Khoa Lục, Nguyễn Thúy Nga và Nguyễn Thị Lâm dịch; Sài Gòn, nxb TP/ HCM, 1993.
02/ DƯƠNG KINH QUỐC; Việt Nam Những Sự Kiện Lịch Sử (1858- 1918), tái bản lần thứ nhất; Hà Nội, nxb Giáo Dục, 2001.
03/ ĐÀO ĐỨC CHƯƠNG; Những Viên Toàn Quyền Cai Trị Liên Bang Đông Dương; Nguyệt san Làng Văn (Toronto, Canada), số 145, tháng 9 năm 1996; trang 32 –40.
04/ NGÔ ĐỨC THỌ chủ biên và 2 tgk; Các Nhà Khoa Bảng Việt Nam; Hà Nội, nxb Văn Học, 1993.
05/ NGUYỄN QUANG ÂN; Những Thay Đổi Địa Danh Và Địa Giới Các Đơn Vị Hành Chính 1945 – 1997; Hà Nội, nxb Văn Hóa – Thông Tin, 1997.
06/ NGUYỄN Q. THẮNG và NGUYỄN BÁ THẾ; Từ Điển Nhân Vật Lịch Sử Việt Nam; Sài Gòn, nxb Khoa Học Xã Hội, 1992.
07/ NGUYỄN THẾ ANH; Phong Trào Kháng Thuế Miền Trung Năm 1908 Qua Các Châu Bản Triều Duy Tân; Sài Gòn, Bộ Văn Hóa Giáo Dục và Thanh Niên, 1973.
08/ NGUYỄN VĂN XUÂN; Phong Trào Duy Tân; Sài Gòn, nxb Lá Bối, 1970.
09/ QUÁCH TẤN; Nước Non Bình Định; Sài Gòn, nxb Nam Cường, 1967.
10/ TOAN ÁNH; Nếp Cũ Con Người Việt Nam, in lần thứ 2; Sài Gòn, Khai Trí xuất bản, 1970.
Nhận xét
Đăng nhận xét