Từ Thành Đồ Bàn đến Thành Hoàng Đế - Phần 1

Thành Đồ Bàn, Thành Hoàng Đế hay Thành Bình Định cũ là tên gọi của 2 ngôi thành nằm cùng vị trí. Thành Đồ Bàn có trước rồi suy, sau đó Thành Hoàng Đế xây dựng trên phế tích Thành Đồ Bàn. Cuối cùng, thành đổi tên là Thành Bình Định. Vài năm sau, thành bị phá bỏ, dời về phường Bình Định, An Nhơn ngày nay và vẫn giữ tên là Thành Bình Định. Nếu bạn quan tâm Thành Bình Định, hãy nhấn vào chữ màu vàng, t đã có một bài viết chi tiết về nó.

Bài viết này sẽ có sự khác biệt với các bài viết trên mạng. Bởi vì, sau khi đọc xong bạn sẽ hiểu chi tiết về quy mô ngôi thành, vị trí từng tường thành, đền thờ, ngôi điện trên mảnh đất quê hương của mình. Có lẽ nhà bạn đang ở trong thành nhưng bạn không biết chăng? Và giờ đây, mời các bạn yêu thích lịch sử cùng t chu du về quá khứ nào.

THÀNH ĐỒ BÀN

Thành Đồ Bàn cũng thôi không nức nở
Trong sương mờ huyền ảo lắng tai nghe
Từ một làng xa xôi bao tiếng mõ
Tan dần trong yên lặng của đồng quê…
                                (Điêu Tàn - Chế Lan Viên)

Thành cổ Đồ Bàn nằm ở phía bắc TX. An Nhơn, tỉnh Bình Định, tọa lạc trên đất các thôn Nam Tân, Bắc Thuận của xã Nhơn Hậu và cách thành phố Quy Nhơn 27 km về hướng bắc. Nói dài dòng, thật ra kích vào link này là ra vị trí https://maps.app.goo.gl/ayJzZYCxki2DVcsG9

Đồ Bàn là kinh đô của vương quốc Chămpa, vốn tên là Vijaya (Chiến Thắng), được xây dựng từ năm 1000. Trong các sử liệu thường phiên âm là Phật Thệ, Đồ Bàn, Xà Bàn, Trà Bàn hay Chà Bàn.

Lịch sử

Vương quốc Chiêm Thành (Champa) cổ cho đến nay vẫn còn nhiều bí ẩn đối với người Việt Nam. Trước kia, đọc sử xưa, những nhân vật lịch sử Champa với những tên phiên âm Hán hóa, thường được nhắc tới một cách mơ hồ, đôi khi với những lời lẽ xúc phạm, từ đó sinh ra hiểu lầm rồi hiểu sai dẫn đến tâm lý phân biệt đối xử hay khinh thường, không thông cảm lẫn nhau.

Đây là thiếu sót lớn trong quan hệ giữa người Việt và người Việt với nhau. Tình trạng này cần sớm chấm dứt vì cộng đồng người Chăm ngày nay là thành tố bất khả phân của dân tộc Việt Nam. Quá khứ của người Chăm cũng là quá khứ chung của người Việt Nam. Tìm hiểu lịch sử vương quốc Champa xưa, chính vì thế, không những là một bắt buộc lịch sử mà còn là một biểu lộ tình cảm để hàn gắn những tai họa mà cộng đồng người Việt Nam nói chung đã gây ra cho những dân tộc anh em trước khi cùng nhau bắt tay xây dựng lại một đất nước chung.

Quan niệm về đất đai, lãnh thổ và tổ chức chính trị.

Trước khi đi sâu vào phần tìm hiểu lịch sử vương quốc Champa xưa, tưởng cũng nên duyệt lại một số quan niệm về đất đai và lãnh thổ của người Kinh và người Chăm. Có nắm vững yếu tố này, chúng ta sẽ dễ dàng theo dõi những chuyển biến lịch sử tiếp theo và kết quả tất yếu của nó. Khuyết điểm của những nhà viết sử hay nghiên cứu dân tộc học là thường dựa trên những quan điểm văn hóa và tình cảm của mình để phê phán các dân tộc khác, hiểu lầm và ngộ nhận là không tránh khỏi.

Đất đai và lãnh thổ tuy là những giá trị cụ thể nhưng quan điểm của người Kinh và người Chăm rất khác nhau. Đối với người Kinh, đất đai và lãnh thổ vừa là một giá trị vật chất vừa là một biểu tượng tình cảm, trong khi đối với người Chăm đó là một giá trị tâm linh và là một biểu tượng thần quyền.

Qua những đợt di dân liên tục từ hơn một ngàn năm qua, lãnh thổ của người Kinh không ngừng mở rộng theo thời gian và cộng đồng người Kinh ngày nay đã có mặt tại khắp nơi trên thế giới. Người Kinh tuy rất quí đất đai nhưng đó chỉ là một tài sản cần phải bảo vệ, một kỷ niệm cần phải giữ gìn. Rất ít ai chịu giam mình nơi chôn nhau cắt rốn nếu điều kiện sinh sống nơi đó khó khăn. Nơi nào có thể an cư lạc nghiệp được, nơi đó trở thành quê hương, nơi nào sinh sống khó khăn thì bỏ đi tìm nơi khác. Và khi ra đi, người Kinh mang theo cả bàn thờ tổ tiên, gia phả và tín ngưỡng đi theo, do đó không có vấn đề mất gốc hay mất cội nguồn.

Suy cho cùng, người Kinh vừa là một dân tộc du mục vừa là một dân tộc phù sa, bởi vì, một mặt, lịch sử dân tộc Kinh là một lịch sử di dân thường trực và cuộc di dân này đến nay chưa chấm dứt, mặt khác, người Kinh chỉ gắn bó với những vùng đất thấp, đất đồng bằng cạnh những dòng sông hay trục lộ giao thông, ít ai chịu gắn bó đời mình với rừng núi hay biển cả bao la.

Trên phạm vi lớn hơn là lãnh thổ. Lãnh thổ bao gồm cả đất đai, bầu trời và vùng nước, có lằn ranh nhất định và thuộc chủ quyền một quốc gia. Đối với người Kinh, lãnh thổ là một phạm trù ảo, không cụ thể, cha chung không ai tiếc. Lãnh thổ rộng hẹp ra sao là vấn đề trách nhiệm của những người lãnh đạo quốc gia, không ảnh hưởng gì đến đời sống thường ngày của người dân.

Người Chăm thì ngược lại, đất đai là một vật thể thiêng liêng không thể sang nhượng và chối bỏ. Từ ngàn xưa cha ông đã ở đây thì con cháu đời sau phải ở đó, không ai tự quyền rời bỏ quê cha đất tổ định cư nơi khác. Rời bỏ quê cha đất tổ là từ bỏ dòng tộc, từ bỏ thần linh. Chính vì thế, trong suốt dòng lịch sử đương đầu với người Kinh, cộng đồng người Chăm chấp nhận mọi hy sinh và gian khổ để giữ đất và bám đất, cho dù quê hương không còn hay bị tước mất. Tất cả những lễ lạc trong triều chính và ngoài dân gian đều nhằm vinh danh các vị thần cai quản đất đai, vì đất là nguồn sống và cũng là nơi ngự trị của các vị thần bảo vệ đất, che chở gia đình và đồng tộc. Nếu vì một lý do nào đó ngoài ý muốn một người Chăm phải rời bỏ quê hương đi nơi khác lập nghiệp, sinh hoạt tâm linh của người đó luôn gắn liền với nơi sinh quán cũ, vì không ai được quyền mang bàn thờ tổ tiên và thần linh đi theo, con người lệ thuộc thần linh chứ không ngược lại. Hơn nữa nếu phải ly hương, người đó cũng không thể đi ra ngoài lãnh thổ đã được thần linh che chỡ, nghĩa là chỉ giới hạn trong vùng đất của đồng tộc mà thôi. Đó là lý do giải thích tại sao tại người Chăm không di cư ra khỏi địa bàn cư trú của họ và tại nhiều nơi, nhất là ở Bình Thuận, người Chăm định cư tại một làng cách xa nơi sinh quán cũ cả trăm cây số nhưng vẫn muốn lệ thuộc về hành chánh và nghi lễ tại làng cũ. Đạo Hồi khi du nhập vào đây cũng phải thích nghi với tâm lý tôn thờ thần linh của người Chăm để được chấp nhận và đã biến cải thành đạo Bani. Tất cả chỉ vì người phụ trách lễ nghi và sổ bạ hành chánh địa phương là các thầy Paseh, Tapah (nếu là giáo dân đạo Bà La Môn) và các thầy Char, Po Adhya, Po Bac (nếu là giáo dân đạo Bani). Đây là một khó khăn về quản trị hành chánh mà các chính quyền người Kinh không hiểu nổi và muốn xóa bỏ, nhiều tranh chấp đáng tiếc đã xảy ra.

Nhiều người sẽ hỏi dân số vương quốc Champa bây giờ ở đâu? Không lẽ đã bị tiêu diệt hết sao? Con số 100.000 người Chăm tại Bình Thuận và Châu Đốc có phản ánh đúng sự thật không?

Câu trả lời là không và dân chúng gốc Chăm vẫn còn nguyên vẹn. Người Chăm đồng bằng không đi đâu cả, họ đã ở lại trên lãnh thổ cũ tại miền Trung và với thời gian đã trở thành công dân Việt Nam một cách trọn vẹn. Có thể nói không một người Việt Nam nào sinh sống từ lâu đời tại miền Trung nào mà không mang ít nhiều dòng máu Champa trong người. Điều này cũng rất dễ khám phá, ít nhất là về hình dáng: da ngăm đen, vai ngang, mặt vuông, tóc dợn sóng, vòm mắt sâu, mắt bầu dục hai mí, mũi cao, môi dầy, miệng kín. Cũng không phải vô tình mà cách phát âm của người miền Trung khác hẳn phần còn lại của đất nước, với nhiều âm sắc thấp của người Champa. Đó là chưa kể những danh từ có nguồn gốc Champa. Cũng không phải tình cờ mà các điệu múa hát của người Chăm trở thành những điệu múa hát trong cung đình và ngoài dân gian thời Nguyễn. Nêu ra một vài trường hợp cụ thể trên chỉ để chứng minh một điều : dân cư vương quốc Champa cũ đã hội nhập hoàn toàn vào xã hội Việt Nam. Nhắc lại quá khứ của người Chăm cũng là nhắc lại quá khứ của cộng đồng người Việt tại miền Trung nói chung.

Lịch sử Champa là một hành trình đầy phức tạp và chưa được khám phá trọn vẹn. Trong khuôn khổ về đề tài Thành Đồ Bàn, t chỉ trình bày những thăng trầm xoay quanh ngôi thành này, sẽ lược bỏ hoặc viết ngắn gọn những sự kiện bên ngoài Vijaya để tránh lan man và để các bạn tiện theo dõi. 

Sau khi kinh đô Indrapura bị quân đội Lê Hoàn của Đại Cồ Việt tấn công và phá hủy năm 982. Triều đình Champa lánh nạn vào phương nam. Lưu Kế Tông, một vị tướng của Lê Hoàn đã ở lại và cai trị khu vực bắc Chăm từ Quảng Bình vào Quảng Nam ngày nay.

Ở phía nam, người Chăm đã tôn một vị lãnh đạo của mình lên ngôi với tên hiệu là Harivarman II vào năm 988. Ông đã cho xây dựng Vijaya tại tỉnh Bình Định ngày nay mà người Việt bắt đầu gọi là Đồ Bàn, hay Chà Bàn. Sau cái chết của Lưu Kế Tông, Harivarman II phản công lấy lại Indrapura. Nhận thấy Indrapura đã bị tàn phá nặng nề, tới khoảng năm 999 vị vua kế tiếp là Sri Vijaya Yangkupu (âm Hán-Việt là Ngô Nhật Hoan ?) đã vĩnh viễn dời đô về Vijaya. Việc dời đô về Vijaya được Tống sử ghi lại khi đoàn sứ thần của Champa tới nhà Tống (Trung Quốc) vào năm 1005. Đây là kinh đô cuối cùng của vương quốc Champa và các vua Chăm đã đóng ở đây từ năm 999 đến năm 1471. Trong khoảng thời gian này, các vua Chăm đã cho xây dựng rất nhiều đền tháp quanh khu vực kinh thành, mà hiện nay vẫn còn tồn tại 8 ngôi tháp (Bánh Ít, Dương Long, Đôi, Cánh Tiên, Phú Lốc, Thủ Thiện, Bình Lâm, Hòn Chuông), với 14 tháp có niên đại thế kỷ 11-15. Trong đó, nổi bật và thu hút khách du lịch đến tham quan nhất là tháp Đôi, tháp Bánh Ít, tháp Dương Long.

Trong 5 thế kỷ là kinh đô, Vijaya phải chịu nhiều cuộc tấn công từ Đại Việt, Chân Lạp, Xiêm, Nguyên Mông. Người Khmer đã tấn công vào rất nhiều lần, có những thời gian Vijaya chịu sự cai trị của Chân Lạp từ 1145-1149 và 1190-1192. Xiêm La dưới thời vương triều Sukhothai cũng góp phần vào trận chiến năm 1313 nhưng sau đó đã rút lui bởi sự can thiệp của nhà Trần (Đại Việt), Nguyên Mông tấn công Vijaya và năm 1283. Nhưng nhiều nhất vẫn là các cuộc tấn công từ các vương triều Đại Việt, các thống kê cho thấy Vijaya bị tấn công từ Đại Việt vào các năm 1044, 1069, 1074 (nhà Lý), 1252, 1312, 1377 (nhà Trần), 1403 (nhà Hồ), 1446, 1471 (nhà Lê). Trận chiến tại thành Vijaya vào năm 1471 với quân đội nhà Lê (Đại Việt) cũng chấm dứt sự tồn tại sau 5 thế kỷ là quốc đô của Vijaya, Champa mất hoàn toàn miền bắc vào Đại Việt và lui về vùng phía nam đèo Cù Mông.

Các cột mốc tiêu biểu

Năm 1069 quân Việt tấn công Champa. Vua Rudravarman bị bắt làm tù binh và sau đó đã đổi ba châu Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính ở phía bắc gần biên giới với Đại Việt để lấy tự do. 

Vào năm 1307 vua Jaya Simhavarman III (Chế Mân), đã nhượng hai châu Ô, Lý ở phía bắc (từ sông Cam Lộ, Quảng Trị đến Hải Vân ngày nay) cho Đại Việt làm sính lễ để cưới công chúa Huyền Trân nhà Trần. Sau sự kiện này, Champa chỉ còn lại lãnh thổ từ sông Thu Bồn trở vào.

Năm 1376, vua Trần Duệ Tông đem 12 vạn quân thủy, bộ đánh Vijaya bị Che Bonguar (Chế Bồng Nga) đánh bại, Trần Duệ Tông tử trận. 

Năm 1403, Hồ Hán Thương sai tướng đem 20 vạn quân vây đánh Vijaya ngót hai tháng trời, nhưng bị quân Champa phản công quyết liệt, phải rút quân về nước.

Qua các cuộc xung đột với Đại Việt, Champa mất dần các trấn phía bắc: Indrapura, Amaravati rồi đến năm 1471 thì chính Vijaya bị quân của vua Lê Thánh Tông vây hãm triệt hạ. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư thì quân Việt bắt sống hơn 30.000 người Chiêm, trong đó có vua Trà Toàn còn 40.000 lính Chiêm tử trận. Trà Toàn sau đó bị chết trên đường tới Thăng Long. Sau khi chiếm được, Lê Thánh Tông ra lệnh hủy Vijaya. Thành Đồ Bàn từ đây bị bỏ hoang.

T sẽ đề cập chi tiết những thăng trầm của Thành Đồ Bàn ở phần sau, trước tiên chúng ta tìm hiểu một vài đặc điểm của thành đã nhé.

Đặc điểm

Vijaya nằm trên một vùng đất cao so với các cánh đồng xung quanh. Theo ghi chép của Mã Đoan một thông ngôn của Trịnh Hòa (nhà Minh, Trung Quốc) đến Vijaya vào đầu thế kỷ 15 - khoảng năm 1413 được thể hiện trong cuốn sách sau này của ông là Ying-yai Sheng-lan - Doanh Nhai Thắng Lãm, thì kinh đô Champa thời kỳ này được miêu tả:

Đi theo hướng tây nam một trăm lí bạn sẽ tới thành phố nơi nhà vua cư ngụ, tên gọi ngoại quốc của nó là Chiêm Thành (Chan city). Thành phố có một bức tường thành bằng đá, với lối ra vào qua bốn cổng, có người được lệnh đứng gác. Ngôi nhà trong đó nhà vua cư ngụ thì cao và rộng. Nó có một cái mái lợp ngói nhỏ hình thuẫn trên đó, bốn bức tường bao quanh được xây dựng với phần trang trí công phu bằng gạch và hồ, rất gọn ghẽ. Các cánh cửa được làm bằng gỗ cứng, được trang trí với các hình khắc các thú hoang và gia súc. Các ngôi nhà trong đó dân chúng sinh sống có mái lợp bằng tranh, chiều cao của gờ mái nhà (tính từ mặt đất) không thể quá ba thước [1 thước Tàu bằng 38 cm], người ta ra vào phải khom lưng và cúi đầu xuống, và có chiều cao quá khổ là một điều bực mình."

Hiện nay dấu tích của vương triều Champa tại Vijaya còn lại gì?

Tường thành: sau mấy trăm năm hoang phế, Nguyễn Nhạc xây dựng Thành Hoàng Đế trên nền Thành Đồ Bàn. Hệ thống tường thành được Nguyễn Nhạc sử dụng lại, sửa chữa và gia cố thêm vững chắc. Do đó, di tích tường thành là sự đan xen giữa hai triều đại. 

Nếu không để ý thì bức vẽ trên chỉ là một hình ảnh nghệch ngoạc không đặc biệt. Để ý kỹ sẽ thấy nó chứa đựng nhiều thông tin quý. Dễ dàng nhận ra tường thành Đồ Bàn là hình vuông so với Thành Hoàng Đế là hình chữ nhật, bên phải (hướng tây) tường thành cong theo một nhánh sông nhỏ. Đến lúc này t vẫn chưa cho bạn biết quy mô thành phải không? Đừng vội, t sẽ trình bày chung ở phần Thành Hoàng Đế cho bạn dễ hình dung.

Voi đá: hai tượng voi đá gồm một voi đực và một voi cái. Voi cái cao 1,7m, dài 2,2m, thân rộng 0,7m tạc trong tư thế tĩnh, mang bành và đồ trang sức thể hiện những yếu tố của nghệ thuật Chăm. Voi đực cao 2m, dài 2,2m, thân rộng 1m, tạc trong tư thế động, vòi uốn cong như đang nhổ một vật gì đó. Đây được cho là hai tượng voi thể hiện dạng tượng tròn có kích thước lớn nhất của người Chăm hiện còn và là một trong 13 bảo vật quốc gia là hiện vật gốc, độc bản trong phong cách điêu khắc Chăm ở thế kỷ 12 tại Bình Định.

Sư tử đá: gồm 3 con có niên đại từ thế kỷ thứ 12, vẫn được Nguyễn Nhạc giữ lại làm vật trang trí trong Tử Cấm Thành sau này.

Một người lính Bình Định 
bên cạnh voi đá 1905

Éléphant en pierre enfoui dans des buissons Matières et techniques: Papier (positif, noir et blanc)Sujet représenté Description de la représentation: Statue d'éléphant enfoui dans des buissons jusqu'aux genoux, tiare, collier gorgerin à grelots, défense et oreille gauche brisées, taches (vu de 3/4 gauche, grès). Lieu de collecte: Asie, Asie du Sud-Est, Vietnam, Binh Dinh (province), An Nhon (district), Citadelle de Cha Ban.

 Mục sư Escalère bên cạnh voi đá 1905

Révérend Père Escalère debout devant une statue d'éléphant grandeur nature.Matières et techniques: Papier (positif, noir et blanc)Sujet représenté Description de la représentation: Éléphant grandeur nature debout sur un socle, collier, défense et bout de l'oreille droite brisés (vu de 3/4 droite, grès), présence du R.P. Escalère. Lieu de collecte: Asie, Asie du Sud-Est, Vietnam, Binh Dinh (province), An Nhon (district), Citadelle de Cha Ban.

Bảo vật ngày nay nằm giữa đường kể cũng kỳ. 
Ảnh 2024

Vị trí voi đá ngày nay 
Tượng voi đá do Martin Hürlimann chụp năm 1926

Lúc này xung quanh tượng đã thành đất trồng trọt. Ảnh không biết niên đại, có thể thập niên 1930
Ảnh 2024

Tượng voi cái năm 1905. Những ngôi nhà tranh phía sau rất giống với mô tả của Mã Đoan cách thời điểm chụp ảnh đến 500 năm. Nửa thiên niên không hề thay đổi nhiều, thế mới biết cuộc cách mạng công nghiệp thế kỷ 20 thật vĩ đại. Nó đã thay đổi vĩnh viễn bộ mặt thế giới chỉ sau 100 năm.

Éléphant en pierre enfoui dans des buissonsMatières et techniques: Papier (positif, noir et blanc)Sujet représenté Description de la représentation: Statue d'éléphant enfoui dans des buissons jusqu'aux genoux, tiare, collier gorgerin à grelots, défense et oreille gauche brisées, taches (vu de 3/4 gauche, grès). Lieu de collecte: Asie, Asie du Sud-Est, Vietnam, Binh Dinh (province), An Nhon (district), Citadelle de Cha Ban.

Ảnh voi cái 2024

Sư tử đá bên trái lầu bát giác năm 1914

Lion debout de l'enceinte de la citadelle de Cha Ban aux abords du tombeau de Vo TanhMatières et techniques: Papier (positif, noir et blanc)Sujet représenté Description de la représentation: Lion debout sur un socle, gardant le tombeau du Général Vo Tanh (XVIIIe siècle), gueule ouverte, lichens formant des taches blanches (vu de 3/4 droit, grès). Lieu de collecte: Asie, Asie du Sud-Est, Vietnam, Binh Dinh (province), An Nhon (district), Citadelle de Cha Ban, Tombeau du Général Vo Tanh

Ảnh sư tử đá bên trái lầu bát giác 2025, chân sư tử được gia cố thêm xi măng bên dưới, để ý kỹ phía sau bạn sẽ nhận ra thêm điều khác biệt so với ảnh xưa, t sẽ trình bày sau.

Tháp Cánh Tiên, click vào tên tháp để xem bài viết chi tiết.

Ngoài ra, phía Bắc thành có Chùa Thập Tháp Di Đà (được xây trên nền của mười tháp Chăm cổ); phía Nam thành có chùa Nhạn Tháp, đều là những ngôi chùa cổ. Bên cạnh Chùa Thập Tháp thì có tàn tích Tháp Mắm (Tháp Mẫm). Bên trong vòng tường bao của tháp là một tổ hợp kiến trúc đồ sộ, trong đó tháp Giữa là một Kalan chính, nằm ở vị trí trung tâm của di tích, xung quanh là các tháp thờ phụ, bao gồm tháp Nam, tháp Bắc, tháp Tây, tháp Cổng, tháp Hỏa và tháp Bia. Khu vực Đồ Bàn nói chung còn giữ được nhiều di tích liên quan đến văn hóa Champa. 

Hai ảnh cho thấy mảnh vỡ trang trí kiến ​​trúc Chăm trước chùa Thập Tháp năm 1934. Các tác phẩm điêu khắc (mảnh vỡ) bao gồm Makara, tympanum, Nandin, linga (đá sa thạch), được đặt trước chùa. (Dịch từ tiếng Pháp). 
T không thể tìm được vị trí phù hợp với bức ảnh tại chùa. Phải chăng hậu cảnh là một ngôi mộ tháp của chùa, hiện nay không còn.

Tượng Gajasimha vừa được khai quật 
tại Tháp Mẫm năm 1934.
Ảnh 2024 tại Bảo tàng 
Điêu khắc Chăm Đà Nẵng.

Gajasimha là một hình tượng linh thú trong thần thoại Ấn Độ với đầu voi và thân sư tử. Tại các đền - tháp, tượng Gajasimha sẽ được đặt trước cửa với vai trò bảo vệ sự tôn nghiêm cho công trình.

Tượng Gajasimha, chất liệu Sa thạch, xuất xứ Tháp Mẫm (Bình Định), niên đại thế kỷ XII, được công nhận Bảo vật quốc gia năm 2020. Tượng được tìm thấy trong cuộc khai quật tại Tháp Mẫm (Bình Định) năm 1933-1934 do EFEO thực hiện. Theo thống kê trong đợt khai quật đó có đến 58 tấn hiện vật điêu khắc được tìm thấy. Rất nhiều trong số chúng được đưa về Bảo tàng Điêu khắc Chăm Đà Nẵng từ năm 1935. Rất may, nhiều bảo vật trong số chúng không bị người Pháp đem về chính quốc vì "quá nặng" (ý kiến cá nhân).

Đến đây, t kết thúc phần mô tả về đặc điểm Thành Đồ Bàn. Ở phần tiếp theo, t sẽ đến một thời đại mới: Tây Sơn - Nguyễn Nhạc.

Xem phần 2 tại

Nhận xét

Bài đăng phổ biến