Chùa Sắc tứ Linh Phong
1. Đào Tấn ghi chép về chùa Linh Phong:
Cách thành Đồ Bàn hơn ba mươi dặm về hướng đông bắc, quanh các thôn Phương Phi, Phương Thái thuộc vùng biển đều là núi non cả (trong quần sơn này) nổi lên một ngọn núi cao chót vót, xinh xắn, đứng một mình, đó là ngọn núi có chùa Linh Phong. (Nơi này) rừng suối cây đá có vẻ đẹp kín đáo và thanh cao không đâu bằng. Có thể nói đây là ngọn núi đẹp nhất tỉnh Bình Định.
Vào năm thứ mười một đời vua Hiếu Minh (Quốc chúa, Minh Vương, Nguyễn Phúc Chu) ở triều trước nước ta, nhằm năm thứ 23 niên hiệu Chánh Hoà nhà Lê, tức năm nhâm Ngọ (1702) có Mộc Y Sơn, ông tu tại núi này. Kết vỏ cây làm áo, mùa đông mùa hè vẫn mặc như thế, ung dung sống bên sườn núi, trong hang đá, ra vào không ai định trước được. Người trong vùng chẳng biết họ tên ông (nhân thấy ông ở trong núi, gọi ông là Sơn Ông (ông Núi). Khảo tự phổ riêng của chùa (Linh Phong) cùng bài vị các đời trụ trì thờ tại chùa, thấy có ghi ông họ Lê tên Ban, người ở kinh đô Trung Quốc. Gọi Sơn Ông là Lê Ban chưa biết đúng không hoặc ông là người giấu tên trốn đời, sống hoà mình vào đám người chằm nón đốn củi dệt chiếu câu cá cũng chưa biết chừng! Ông ở núi này được vài năm thì chọn lưng chừng núi chỗ có con suối sâu và dài, phát cây hoang, vác đá lớn xếp chỗ nọ, lắp chỗ kia, lấy thanh tre làm một cái am nhỏ (công việc xây dựng nhanh chóng như có quỷ thần dị vật ngầm giúp). Am cất xong, đặt tên là: "Dũng tuyền tự " gối đầu vào ngọn núi rất cao, cạnh con suối trong luôn có nước chảy, hai bên có mây già đá lạ, cây kỳ, hoa nổi tiếng, chỗ cao chỗ thấp chứa sẵn cái vẽ rất yên tĩnh và rất sạch sẽ. Cảnh trí này đều do tay ông sắp đặt lấy với tâm hồn của người thợ, lập riêng thành thế giới cỏn con giữa cõi trời và cõi người. Phía tả chùa có gian nhà đá, nóc bằng như trần nhà, hai bên thẳng như vách, giữa như giường nằm, ngoài như bậc thềm, như sân. Trên mặt sân đá về phía hữu có chỗ lõm xuống, có truyền thuyết cho rằng đây là cối giã gạo của Sơn Ông. Hoặc cho rằng: "Ông chứa nước nơi này để đổ vào nghiên khi mài mực". Thiên nhiên sắp đặt, nghiễm nhiên thành một ngôi nhà nhỏ. Lúc rảnh rỗi ông thường đến chơi trong nhà đá, một mình ngồi niệm kinh, nay do chỗ này mà tưởng tượng được cách sinh hoạt của ông.
Tương truyền ban ngày ông ở trong núi đốn củi, bó thành bó lớn, phải sức của hai người khiên nổi, vậy mà chỉ một mình ông vác xuống chân núi, đặt bên đường. Người qua lại đều biết là chỉ của Sơn Ông, bèn đem rau gạo mà đổi. Ông hoặc đồng tử xuống núi lấy gạo rau rồi đi, chưa từng đối đáp một ai về việc đổi chác nhiều ít thế nào. Ngày khác cũng vậy như thế được mười mấy năm không thể biết được tung tích. Núi nhiều cọp chỉ một mình ông ở với một đồng tử, người với cọp beo như quen biết nhau, quên vật quên mình. Xưa có ông Đồng Cảnh Đạo ẩn trong núi Thương Lạc, mặc áo lá cây, gảy đàn ca hát, tự lấy thế làm vui, trùng độc và thú dữ qua lại bên cạnh. Như Sơn Ông đây là nhà sư (mà hành tung có khác gì bậc ẩn giả kia). Ôi (nếu không phải thế thì) sao dạo biển chơi mây rồi cuối cùng thì gửi dấu nơi núi này?
Kịp đến năm thứ 8 đời vua Hiến Ninh (Ninh Vương, Nguyễn Phúc Chú) nước ta, nhằm cuối năm Vĩnh Khánh thứ 4, đầu năm Long Đức nguyên niên nhà Lê, tức cuối năm Nhâm Tý đầu năm Quí Sửu (1732) vua khen ông là bậc chân tu, sai sùng tu chùa. Chùa tranh thành chùa ngói bắt đầu từ đây. Vua ban tên chùa là "Linh Phong thiền tự", bên tả khắc “Vĩnh Khánh Quí Sửu xuân vương chính nguyệt” (tháng giêng năm Quí Sửu Vĩnh Khánh nhà Lê), bên hữu khắc “Quốc chúa ngự đề” (chính tay Quốc chúa ghi) và ban ngự liễn
Bên tả khắc “Quí Sửu cốc đán” (Buổi sáng tốt năm Quí Sửu). Bên hữu khắc "Quốc chúa ngự đề". Dưới bốn chữ "quốc chúa ngự đề" ở tấm biển và ở câu liễn này đều có khắc “Thần ngự bửu tỷ” (ấn báu Thần ngự) của nhà vua. Vua còn ban cho Sơn Ông hiệu Tịnh Giác Thiện Trì Đại Lão Thiền Sư.
Vào năm thứ 3 đời vua Hiếu Võ (Võ Vương Khúc Khoát) nước ta, nhằm năm thứ nhì niên hiệu Cảnh Hưng nhà Lê, tức năm Tân Dậu (1741), vua sắc triệu Sơn Ông về kinh để tham vấn về giáo lý nhà Phật. Ông chống gậy tầm xích đến chơi nơi vua đóng đô, chưa đầy tháng thì đã từ tạ lui về. Vua ban một bộ áo cà sa có vòng ngọc móc vàng làm pháp phục, ân sủng thật hiếm có.
Trong loạn lạc thời Tây Sơn chùa bị đổ nát, chính là lúc ông qua đời, Tăng chúng các chùa họp lại lo việc mai táng cho ông, tháp xây bên hữu chùa. Tại tháp có câu liễn:
Bên hữu viết : “Ngụy Thái Đức bát niên” (Năm thứ 8 hiệu Thái Đức nhà Tây Sơn – 1785), nay vẫn còn. Do đó biết ông viên tịch thời Tây Sơn.
Sau khi Thế tổ Cao Hoàng Đế nhà Nguyễn ta định rồi. Triều đình vâng mệnh hỏi han đến tình trạng chùa Linh Phong. Năm Gia Long thứ 7 Mậu Thìn (1808), triều đình phụng mệnh truyền ý chỉ của Thánh Mẫu Hiếu Khương Hoàng Hậu rằng "Vật thường trụ của chùa Linh Phong (đã đổ nát) không ai được lấy càn, để đợi sùng tu". Năm Minh Mệnh thứ 7, Bính Tuất (1826) vua sắc trấn thần đệ tương pháp phục triều trước đã ban cho Sơn Ông để vua xem, rồi ra lệnh theo cách thức cũ chế một bộ cà sa mới có móc vàng và vòng (kim loại) tạc hình voi, ban cho chùa Linh Phong làm vật để thờ ông. Vua còn lệnh xuất kho trong cung một trăm hai mươi lạng bạc, sai Trấn thần trùng tu chùa, nên đài giảng kinh ấy, ghế ngồi nói Pháp ấy trang nghiêm không đâu bằng, cỏ non thông lớn đều thấm nhuần ơn mưa móc mà Sơn Ông chưa kịp thấy. Có thuyết nói rằng: "Khoảng niên hiệu Minh Mệnh (một đêm) vua không được khoẻ, vừa chợp mắt thì mộng thấy được một nhà sư già mặc áo vỏ cây, đứng bên giường ngọc quạt cho vua. Rạng sáng hôm sau mình rồng khoẻ khoắn, vua đem điều chiêm bao nói cho quan chấp chánh biết, nhân đó nhớ chuyện Mộc y Ông ở chùa Linh Phong về triều trước, vua làm lấy lạ (cho sự linh dị của Sơn Ông) bèn ra lệnh trùng tu chùa. Ôi! Ông cũng lạ lùng thay! Mặc áo vỏ cây làm sư, cửa vàng yết chúa, nhà đá niệm kinh, giường ngọc hiển mộng, qua lại cõi trần sắc tướng không không, nay tên ông cùng tên núi đều truyền, đáng làm thắng tích ở tỉnh nhà Bình Định.
Giữa niên hiệu Kiến Phúc, Hàm Nghi, Đào Tấn tôi bỏ quan về nhà ở phía nam kinh đô, gửi thân nơi cửa thiền để tránh loạn, kiệu chàm gặp trúc thường qua lại núi này chùa này. Người xưa một năm ở núi quá nửa. Đào Tấn tôi lúc bấy giờ cũng tương tự như thế. Lúc ở núi, nhân hứng có đề mấy câu vụng về, nay ghi lại đây vài câu liễn:
Lại đề một câu liễn nhỏ tại nơi ở là ngôi nhà nhỏ cạnh ngôi chùa:
Đó là tả cảnh thật. Ở núi rỗi việc, bèn sưu cầu di tích của Sơn Ông, chẳng có văn bia làm chứng, chỉ tìm được giấy rách sách nát có đề năm ghi tháng, tham khảo sách Đại Việt Sử Ký cùng thực lục tiền biên của bản triều (đối chiếu với tàn chỉ tệ biên) để tìm chứng cứ đích xác, được điều nào ghi điều nấy. Lại được hơn 200 tấm ván khắc trọn một bộ "Pháp hoa kinh giải" cùng con dấu riêng bằng đá quí, khắc: “Bán sơn trung tự” (chùa ở lưng chừng núi) khắc “Khai sơn Dũng Tuyền tự” (lập nên chùa dũng tuyền). Khắc: “Nhân hiệu Sơn Ông” (người có tên hiệu là Sơn Ông), khắc: “Thạch trung kiến ngã” (tìm ra trong đá), khắc: “Tĩnh phương” (nơi yên tĩnh), khắc: “Tịnh tính” (tính vắng lặng), khắc: “Thạch thất” (nhà đá). Tất cả được 7 cái, lối chữ triện rất xưa. Đào Tấn tôi lau sạch bụi, đặt vào tráp nhỏ cùng một bản hộ "Pháp hoa kinh giải" giao cho tự tăng cất giữ cẩn thận. Cũng có đôi ba tờ giấy có dấu chữ Sơn Ông để vịnh như tự tăng chẳng biết đã lấy bồi bức mà vẽ tượng! Tấn tôi lật bề lưng bức tượng mà xem, phần lớn chữ hiện rõ nhưng không hiểu, thật đáng tiếc!
Niên hiệu Thành Thái (1895) Tấn tôi thư Thượng thư bộ công, đem chuyện chùa Linh Phong tâu lên Tây Cung để cầu xin ấn chỉ Tây Cung lệnh xuất kho trong cung 70 lạng bạc, sai tỉnh thành quyên thêm người trong tỉnh được bao nhiêu thì gọp chung với số bạc đã ban mà đốc thúc việc trùng tu chùa. Tháng tám năm Đinh Dậu, nhằm năm thứ 9 niên hiệu Thành Thái thì lạc thành.
Đào Tấn tôi chưa thể về thăm nhưng theo lời người làng ra, ai cũng nói: "Quang cảnh chùa Linh Phong nay trở nên sáng sủa và mới mẻ!" Đáng mừng! Đáng yên tâm! Nhân rổi việc sổ sách tại bộ lược thuật những nét chính, sai các con là Thoại Thạch Nhữ Tuyên ghi lấy, vì chùa Linh Phong là phương tiện nhỏ đưa người đến giác ngộ (nên phải viết) để sự tích chùa khỏi bị vùi lấp chứ chẳng phải làm văn vậy.
2. Những truyền thuyết về Ông Núi:
Chùa Sắc tứ Linh Phong - người địa phương thường gọi là Chùa Ông Núi, có tên chữ đầy đủ là “Dũng Tuyền Linh Phong Thiền Viện”, tọa lạc trên đồi núi Phương Phi, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định, ở độ cao gần 100m so với mặt nước biển. Địa danh lúc Tổ khai sơn là ấp Phương Phi, quận Phù Ly, phủ Qui Ninh, trạm An Hành, thuộc dinh Quảng Nam (năm 1686). Nay thuộc thôn Phương Phi, xã Cát Tiến, Phù Cát.
Tương truyền rằng, niên hiệu Chánh Hòa (1686) Tổ Giám Huyền cùng đệ tử là Ngài Tánh Ban (thường gọi là Lê Ban) theo thương thuyền từ Bắc vào Nam, đến bờ biển Phương Phi thì có sóng to gió lớn, thuyền buột phải neo vào bờ. Tổ Giám Huyền (huý Như Diệu, đời 33, do Tổ Trí Bảng từ Trung Hoa truyền sang chùa Bạch Mai, Hà Nội) cùng Ngài Tánh Ban nhàn du khắp miền Phương Phi, nhân thấy quang cảnh, địa thế rất thuận duyên cho việc ẩn tu thiền định nên đã sớm chia tay với chủ thương thuyền. Thầy trò ở lại. Ngài Giám Huyền đã chọn ngọn núi đá Phương Phi do hàng ngàn tản đá lớn nhỏ chất chồng lên nhau mà tạo thành làm nơi dừng chân tụ tập. Dãy núi đá này có nhiều kỳ nham cổ thụ, thạch cốc, hang động kỳ bí, hoang vu. Trên khu rừng núi hoang sơ, không dấu chân người này, có nhiều thú rừng như voi, cọp, beo, nai, vượn, trăn, rắn… đang sinh sống. Tổ Giám Huyền và Ngài Tánh Ban đã mở đường lên gần đỉnh núi, dừng lại trên một tảng đá lớn, cạnh đó có một hang rộng, dòng nước như thác từ trên cao đổ xuống bất tận. Hang này có tên là “Dũng Tuyền Thạch Cốc” (hang đá có nước xối mạnh) - là tiền thân của “Sắc Tứ Linh Phong Thiền Viện” (nhân dân địa phương gọi hang này là “Hang Ông Già”). “Dòng nước này lại lao mình vào một hố thẳm khác, tưởng chừng như mất dạng. Nhưng có sự huyền diệu nào đó, dòng nước lại lộ diện trước một hang đá khác rộng khoang 18m2 - người dân gọi là “Hang Ông Núi” (có lẽ “hang Ông Già” là nơi Tổ Giám Huyền tụ tập, còn “hang Ông Núi” là của Ngài Tánh Ban?) - dòng nước lại băng qua đồi núi sỏi đá gồ ghề dồn về suối Hàm Long - nơi đây sau được kiến tạo nên Chùa Ông Núi”.(1)
Năm Bính Tý (1696), sau 10 năm ẩn tu ở “Dũng Tuyền Thạch Cốc”, nhằm niên hiệu Chánh Hòa, Tổ Giám Huyền vâng sắc chỉ triều đình về tái thiết chùa Quang Minh Hộ Quốc Trường An Quan Tự (nay là chùa Quang Hoa thôn Luật Bình, xã Phước Quang, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định). Ngài Tánh Ban còn lại, một mình ẩn tu thiền định ở “hang Ông Núi”. Ngài là một bậc đạo cao, đức trọng, lại có nhiều mật hạnh kỳ bí nên đã lưu lại trong sử sách và truyền thuyết dân gian nhiều huyền thoại nhiệm mầu bất khả tư nghì.
Tương truyền rằng Ngài ẩn tu lâu năm trên dãy núi cao nhiều thú rừng (như voi, cọp, beo, trăn, hưu, vượn…), không liên hệ với dân cư ở vùng ruộng đồng và miệt biển, người dân cũng không có ai dám lên núi. Ngài lột vỏ cây làm y phục (nên người dân gọi Ngài là ông Núi chăng?) - đúng Ngọ dùng một bữa ăn, toàn là hoa quả rau củ do vượn, voi dâng cúng. Ngài sống chung với thú rừng.
Lúc cần gạo - như phục dược, ông đem bó củi đặt ở chân dốc - nhân dân quanh vùng thấy biết, đem gạo treo ở một cành cây gần đó. Về đêm, ông xuống dốc nhận gạo về hang. Có truyền thuyết, thỉnh thoảng vượn, gấu, beo thấy gạo biết là của ông - đã cõng gạo về hang cho ông. Trong sách “Địa Dư Bình Định”, cụ Bùi Văn Lăng đã có ghi nhận: “Ông Núi hái củi đổi gạo; tu hành đắc đạo!”.
Người dân vùng Phương Phi còn kể lại cho các đời con cháu sau này nghe rằng: Ông Núi còn có hai con cọp trắng ngày đêm ở bên hang - luôn giúp ông nhiều việc như hai thị giả trung thành, chí hiếu. Đúng như sách “cổ ngữ” có truyền “Đạo cao long hổ phục; đức trọng quỷ thần kinh”. Đời Chúa Hiếu Võ hoàng đế thứ 2 (1741) niên hiệu Cảnh Hưng - vì nghe biết đạo pháp uyên thâm, đức hạnh kỳ bí của Ngài, đã sắc chỉ trấn thần Quảng Nam triệu Ông Núi về kinh đô để học hỏi diệu lý đạo pháp. Khi Ông Núi trở về, Chúa Hiếu Võ kính phục đức độ, đạo hạnh, học lực uyên bác của Ngài, đã ân tứ một bộ cà sa pháp phục bằng gấm ngọc nạm vàng.
Giờ Tỵ, ngày 19 tháng 6 năm Bính Dần (1747) Ngài đã thị tịch tại “hang Ông Núi” - thọ 81 tuổi. Hai con cọp trắng “thị giả” của ông nằm trước hang, cũng chết sau đó ít lâu. Hai bộ xương đã được dân chúng tôn giữ, thờ phụng trong chùa như pháp bảo (đã bị mất trong khoảng 1778 – 1800). Tuy Ngài đã thị tịch, nhưng dân trong vùng Phương Phi - Cát Tiến vẫn thường được gặp ông khi trong gia đình có người thân bị đau nặng thập tử nhất sinh, hay có bị dịch bệnh - Ông thường đến vào ban đêm, đem theo thuốc trị bệnh, rồi biến mất vào bóng đêm…
Năm 1826, niên hiệu Minh Mạng thứ 7 - nhà vua lâm trọng bệnh, các ngự y đều thúc thủ; đang đêm nhà vua nằm mộng thấy một nhà Sư mặc đồ bằng vỏ cây - ung dung, tự tại bước thẳng đến long sàn, dâng một bát thuốc, cầm quạt phất ba cái, rồi thong dong ra đi. Vua Minh Mạng liền tỉnh giấc mộng, thấy trong người an vui, như không có bệnh gì. Hôm sau, đến buổi thiết triều, nhà vua đem câu chuyện nằm mộng kể cho đình thần nghe; đương thời quan trấn thần Quảng Nam tâu cho vua biết, vị Sư mặc y phục vỏ cây chính là Ông Núi - Ngài Tánh Ban, đã thị tịch cách đây hàng trăm năm ở thôn Phương Phi, quận Phù Ly… Niên hiệu Chánh Hòa, năm Giáp Thân, vua ban “Sắc tứ Dũng Tuyền Linh Phong thiền tự”. Đời chúa Hiếu Ninh hoàng đế, niên hiệu Vĩnh Khánh thứ 5 (1733), sắc chỉ ban hiệu Ông Núi là : “Tịnh Giác Thiên Trì Đại Lão Công Thiền Sư”. Chúa Hiếu Võ hoàng đế đã ân tứ một bộ cà sa pháp phục bằng gấm, nạm ngọc vàng. Thế tổ Cao Hoàng đế vâng lệnh Hiếu Khang Hoàng thái hậu, sắc chỉ trấn thần bảo quản tự vật, chờ lệnh trùng tu. Vua Minh Mệnh sau khi nghe trấn thần tấu lại sự việc của tiền triều, liền sắc chỉ trấn thần đệ nạp cà sa pháp phục của chúa Hiếu Võ đế đã ban cho Ông Núi đem về triều để ngự lãm. Sau, truyền y theo kiểu, sắm bộ pháp phục cà sa mới, phú chuẩn các quan văn ngự y và phú chúc cho cụ Nguyễn Quang Thanh đại diện hoàng tộc đang bộ pháp phục mới đến tại Dũng Tuyền Linh Phong, để phụng thờ Ông Núi và cấp 120 nén bạc tái thiết chùa Linh Phong để truy niệm ân đức Ông Núi đã cứu mạng nhà vua qua giấc mộng.
Cũng theo truyền thuyết của địa phương, thuở xưa ở vùng Phương Phi, có kẻ cõi âm lẫn lộn trong dân chúng, đi chợ mua vật dụng - ai bán đồ nhầm cho họ - nhất là các cô gái mặt trắng, duyên dáng - tiền bán đồ nhận xong thì biến mất. Ông Núi biết được, dạy cho dân chúng “cách thử” tiền, để tránh được nạn này. Khu chợ ở Phương Phi ngày nay, vẫn còn có tên chợ “Cách Thử” (hay Kẻ Thử, cùng nghĩa) là một bằng chứng.
Ông Núi - Tổ Thiện Trì Thiền sư Húy Tánh Ban, đời 34, đệ tử Tổ Giám Huyền đã đắc đạo, thị tịch cách nay đã 260 năm (1746 – 2006) – nhưng công hạnh, đức độ và nhất là những truyền thuyết về Ngài vẫn mãi mãi còn truyền tụng trong lòng dân chúng với sự tôn kính và ngưỡng mộ. Dân gian có câu ca .
(Kính tặng Thầy Thích Huệ Quang Trụ trì Sắc Tứ Linh Phong) Tháng 2/2006
(1) Lược sử chùa Ông Núi của Thích Đổng Quán.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả chuyển từ Bình Định ngày 28.7.2014.
Đến Phương Phi, xã Cát Tiến, huyện Phù Cát, nhìn lên dãy núi Bà sừng sững, chạy dài ra biển, du khách thấy nhấp nhô lưng chừng núi mái ngói đỏ tươi ẩn hiện trong thảm xanh cây rừng, đá núi, mây ngàn. Đó là chùa Ông Núi mới được xây dựng, tôn tạo lại. Muốn lên chùa, từ tỉnh lộ rẽ vào vài trăm mét tới chân núi, du khách bắt đầu leo lên những bậc tam cấp bằng đá cổ xưa, loanh quanh theo sườn núi. Con đường rộng chừng 3m, được tạo bởi hàng ngàn bậc đá độc đáo này có từ lúc xa xưa và hầu như tồn tại một cách vĩnh hằng, không bị mai một vì năm tháng. Hai bên đường cây chen đá, còn nhuốm vẻ tự nhiên, hoang sơ, ít có bàn tay con người can thiệp vào.
Khoảng nửa tiếng đồng hồ leo dốc là du khách đến nơi chùa toạ lạc. Đó là một khoảnh đất rộng, tương đối bằng phẳng, “lưng dựa non cao, mặt trông ra đầm Hải Hạc (nay gọi là đầm Thị Nại). Gần chùa có suối trong lượn quanh, vị nước vừa ngọt vừa mát lạnh, cỏ hoa xinh đẹp, cảnh trí u nhã kỳ bí, cũng là cảnh đẹp đáng xem của một phương vậy” (Đại Nam Nhất thống chí). Từ đây có thể phóng tầm mắt nhìn xa về phía Nam. Đồng lúa mênh mông, con sông Chùa uốn lượn, bờ biển chạy dài, sóng biển tung bọt trắng xoá. Một không gian thật hoàn hảo trữ tình.
Chùa ông Núi đến nay đã 320 năm, qua 12 đời thừa kế. Trải qua bao thăng trầm, đến khoảng năm 1965 chùa bị bom đạn chiến tranh xoá sạch. Đến năm 1994, Giáo hội Phật giáo tỉnh Bình Định cử hòa thượng Huệ Quang làm trụ trì chùa Linh Phong và công việc tái thiết chùa diễn ra liên tục đến năm 2004 mới hoàn thành. “Khi chúng tôi đến chùa Linh Phong lần đầu tiên chỉ thấy toàn cỏ dại, những đồ vật của chùa ngày xưa không cháy cũng bị kẻ gian lấy cắp. Phật tử phải phát dọn rất nhiều thời gian mới có được con đường lên chùa, nền chùa và dấu vết 18 mộ tháp của các trụ trì đời trước mới lộ ra”, hòa thượng Huệ Quang cho biết. Ngày nay, chùa Linh Phong sừng sững mái son nổi bật trên nền cỏ cây xanh biếc với tượng Phật Bà ngự giữa tòa sen trước sân chùa. Mái cổ lầu, lợp ngói ống. Trên nóc gắn hình lưỡng long tranh châu, nạm sứ. Đôi cột trước điện hình song long cuộn trông khá khang trang.
Thầy Thích Đổng Quán cho biết, tượng Phật cao 2,5m, đại hồng chung nặng 1,2 tấn, đều mới đúc tại chỗ (thuê nghệ nhân Huế vào) và nhập điện vào dịp lễ 25 tháng giêng (ÂL)- ngày giỗ ông Tổ Viên Minh của chùa. Còn đại hồng chung cũ của chùa (hiện đang lưu giữ tại Bảo tàng huyện Phù Cát) có khắc tên một danh tướng của chúa Nguyễn là Tống Phước Hiệp (và tên con trai, con gái), cùng phụ tá của ông là Nguyễn Khoa Thuyên (và tên vợ con). Theo Đại Nam liệt truyện tiền biên, năm 1774, quân Tây Sơn đánh Bình Thuận, Tống Phước Hiệp cùng Nguyễn Khoa Thuyên nhận được lệnh phát hịch gọi binh đi đánh Tây Sơn. Trong chiến dịch này, Tống Phước Hiệp bắt gặp đại hồng chung chùa Thiên Phước (ở Vĩnh Long ngày nay) nên cùng với Nguyễn Khoa Thuyên cho thợ khắc chữ lên chuông rồi tiến cúng cho một vị sư. Đến nay vẫn chưa rõ Tống Phước Hiệp tiến cúng đại hồng chung cho vị sư nào và tại sao đại hồng chung này lại có tại chùa Linh Phong.
Chùa Linh Phong đã được Nhà nước công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa. Ngày rằm, mồng một, sư sãi và đệ tử khắp nơi về chùa dâng hương lễ Phật. Tết và những ngày lễ lớn, ngày nghỉ, nhân dân nô nức chen chân về chùa Linh Phong vãn cảnh, tham quan. Chùa Linh Phong ngày nay trở thành một địa chỉ du lịch khá hấp dẫn của Bình Định.
Mai Tăng Đào Tấn và Linh Phong Tự - Lộc Xuyên
Cụ Ðào Tấn, tự Chỉ Thúc, hiệu Mộc Mai và Tô Giang, sinh ngày 27 tháng 2 năm Ất Tị (6-4-1845) tại làng Vinh Thạnh phủ Tuy Phước (nay là thôn Vinh Thạnh xã Phước Lộc huyện Tuy Phước). Trúng Cử nhân khoa Ðinh Mão, Tự Ðức thứ 20 (1867). Quan chức đến Hàm Hiệp Biện Ðại Học sĩ, phẩm Tùng nhất, tước Vinh quang tử, kiêm lãnh Thượng thư bộ Công. Về hưu năm Giáp Thìn, Thành Thái 16 (1904). Tạ thế tại Vinh Thạnh ngày rằm tháng bảy năm Ðinh Mùi Thành Thái 19 (23-8-1907), thọ 63 tuổi ta.
Trở lên là đôi nét sơ lược thân thế ông quan lớn họ Ðào. Và, nếu chỉ có thế thì vị tất cụ Ðào Tấn ở Vinh Thanh đã lưu danh thiên cổ. Sở dĩ cụ được các nhà nghiên cứu Văn Học Nghệ Thuật lâu nay xưng tụng là tác giả lỗi lạc của dòng văn học trình diễn, là nhà văn hóa lớn của dân tộc có tầm cỡ quốc tế chính nhờ ở sự nghiệp soạn tuồng hát Bội, dạy hát Bội, hoạt động nhằm phát triển hát bội đến mức cực thịnh. Tư tưởng chủ đạo hướng dẫn ngôn hành của cụ, thể hiện rõ nét qua tác phẩm cụ (gồm văn thơ từ tuồng), là triết lý hữu vi của Nho giáo và biện chứng giải thoát của Phật giáo. Ở đây tôi chưa bàn đến dấu ấn của hai nguồn tư tưởng trên trong tác phẩm cụ mà chỉ nói đến cái hiện tượng biểu thị sự liên hệ mật thiết giữa ông quan lớn mà cũng là nhà văn hóa lớn Ðào Tấn với Thiền môn. Tức là nói đến ý nghĩa từ Tiểu Linh Phong Mai tăng và các nguyên ủy khiến cụ chọn nhóm từ này làm đạo hiệu vừa bút hiệu cho chính mình.
Như trên đã nói cụ Ðào Tấn ngoài hai tên hiệu Mộng Mai và Tô Giang, còn một biệt hiệu nữa là Tiểu Linh Phong Mai Tăng, gọi tắt là Mai Tăng. Biệt hiệu này cụ thường dùng để tự xưng trong những bài thơ nói về mình và dùng ký dưới những trước tác của mình mà ngày nay ta còn thấy được tự tích trên tấm hoành.
Tự tích dưới bài thơ Mai Tăng tức chiếu đề dấu chân dung chụp tại bộ Công năm 1903 và ký dưới bài Linh Phong tự ký. Theo ngữ nghĩa thì Linh Phong Mai Tăng có nghĩa là Sư Mai ở núi Linh, còn từ Tiểu đứng trước bốn từ kia hàm ý khiêm tốn, cả năm từ có nghĩa "Mai tăng, nhà Sư tầm thường ở núi Linh".
Núi Linh - Linh phong - là tên ngọn núi nằm phía đông dãy Bô Chinh đại sơn. Sơn hệ này, tục gọi hòn Bà, nằm giữa huyện Phù Cát, chạy dài từ quốc lộ 1 phía tây đến giáp biển phía đông, gần 20 km đường chim bay. Lưng chừng ngọn Linh phong có ngôi chùa cổ từng được chúa Nguyễn Phúc Chú (Ninh vương) ban biểu sắc tứ vào năm Qúy Sửu 1732. Người khai sơn ngôi Linh Phong Tự là sư Lê Ban, tục gọi Ông Núi (Sơn Ông), từng được chúa Ninh ban hiệu là Tịnh Giác Thiện Trì Ðại Lão Thiền Sư cùng một lúc ban biển sắc tứ cho chùa; chúa Nguyễn Phúc Khoát (Võ vương) mời ông về triều ban cho pháp phục vào năm Tân Dậu (1740). Vua Minh Mệnh ban thêm pháp phục để thờ ông và ban bạc tu bổ chùa vào năm Bính Tuất (1826). "Sư Mai ở núi Linh" nhất định có liên hệ với ngôi cổ tự này.
Xét "Tiểu sử cụ Ðào Tấn 1845-1907" do con trai thứ của cụ là Ðào Nhữ Tuyên soạn đề ngày 17 tháng 8 năm Bảo Ðại thứ 18 (1943) thì: "...sau khi đức Dục Tôn Anh Hoàng đế (tức vua Tự Ðức) thăng hà rồi, quyền thần lộng bính, cụ bỏ quan về phụng dưỡng song đường. Triều đình nghị giáng tứ cấp, năm Kiến Phước nguyên niên (1883) định đưa cụ cố ông và hộ cụ cố bà lên chùa Linh Phong (Phù Cát - Bình Ðịnh) lánh loạn nương thân, năm Ðồng Khánh nguyên niên (1886) quan tỉnh Bình Ðịnh cử cụ Thượng tá Tỉnh vụ Bình Ðịnh, chưa mấy ngày vâng đức Cảnh Ðôn Thuần Hoàng đế (tức là vua Ðồng Khánh) chuẩn triệu lai kinh Tham tá Các vụ..." (1) và bài Linh Phong tự ký có đoạn viết: “Kiến Phúc Hàm Nghi niên giám, Tấn khí quan nam qui, thác ư thiền dĩ tị loạn, lam dư trúc trượng, tằng ư thử sơn thể tự lưu biên. Cổ nhân hữu nhất tuế sơn cư quá bán, Tấn ư thử thời tự chi hĩ!” Dịch: “Giữa niên hiệu Kiến Phước - Hàm Nghi, Tấn tôi bỏ quan về (nhà ở phía) nam (Kinh đô), gởi thân nơi cửa Phật để tránh loạn, kiệu chàm gậy trúc thường đi lại giữa núi này (Linh Phong) và chùa này (Linh Phong tự). Người xưa mỗi năm ở núi quá nửa (thời gian), Tấn tôi lúc bấy giờ cũng tương tự như vậy!” (2)
Qua hai tư liệu trên ta biết được mấy sự kiện: Sau khi Tự Ðức chết (19-4-1883) cụ Ðào Tấn đang thọ hàm Hồng lô Tự khanh phẩm chánh tứ (4-1) vẫn làm Phủ Doãn Thừa Thiên phẩm chánh tam (3-1) thì bỏ quan về nhà ở Vĩnh Thạnh bị điều nghị phạt giáng bốn cấp. Gặp tang cha rồi gặp Văn thân khởi dấy nên cùng với mẹ lên nương náu tại chùa Linh Phong - Phù Cát hơn nửa năm giữa 1885-1886. Ðồng Khánh lên ngôi ngày 14-8-1885 hạ chỉ mời cụ về Kinh giữa năm sau, Ðồng Khánh nguyên niên 1886, cụ về tới triều được cử giữ chức Tham Biện (4) tại Nội các. Vậy là cụ đã có hơn nửa năm hoặc gần một năm ở tại chùa Ông Núi trên Linh Phong để tránh loạn.
Liên hệ đến sự cố Văn thân khởi nghĩa tại Bình Ðịnh, nhiều tư liệu đều đã cho biết sau khi Nguyên soái Mai Xuân Thưởng phụng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi thì có cử người đến mời cụ nhập đảng. Cụ lấy cớ đang thọ tang cha và còn mẹ già phải phụng dưỡng nên từ chối. Sợ ở lại nhà không yên, cụ phải lánh lên chùa Ông Núi, nên cho người bí mật đưa mẹ lên chùa ở với cụ. Ðể tránh sự rắc rối xảy ra từ phía Văn thân, cụ đã "đầu Phật". Có điều cụ "đầu Phật" mà tôi ngờ rằng cụ chẳng "đầu Sư", tức là tự mình đầu Phật, tự mình làm tăng. Tôi vừa nói cụ Ðào Tấn "tự mình đầu Phật, tự mình làm tăng" không phải chẳng có cơ sở. Thông thường một người thế tục muốn làm tăng phải trải qua các chặng đường quy y, thọ giới, cầu pháp. Dẫu cho cụ lúc bấy giờ đã 40 tuổi, đã có vợ có con nhưng nhờ có căn bản Hán học mà đã thâm nhập Phật học, được bổn sư cho miễn thọ giới Sa di thì cũng phải thọ đại giới Tỳ kheo mới làm tăng được. Khi quy y thì được bổn sư đặt cho pháp danh (tên đạo). Khi thọ giới - cầu pháp thì được vị thầy thế độ đặt cho đạo tự (tên tự trong đạo) và đạo hiệu (tên hiệu trong đạo). Pháp danh của đệ tử thường chỉ có hai chữ mà chữ khởi đầu tiếp theo chữ khởi đầu của bổn sư, cả hai đều nằm trong một bài kệ của một dòng Thiền đã có sự truyền thừa ở nước ta. Ðạo tự, đạo hiệu do vị sư thế độ đặt thường được khởi đầu bởi một chữ chung cho đệ tử vị ấy, tự hay hiệu thường cũng chỉ có hai chữ, cả hai đều nói lên cái ước vọng thăng tiến về trí tuệ và về đạo hạnh mà thầy muốn gởi gấm nơi học trò mình. Xét năm chữ "Tiểu Linh Phong Mai Tăng" thì không phải đạo hiệu, đạo tự, lại càng không phải pháp danh. Tôi đã đọc kỹ bài "Tiểu sử cụ Ðào Tấn" đã dẫn trên kia, cùng thần chử, thần vị của cụ hiện thờ tại nhà thờ cụ ở Vĩnh Thạnh thì ngoài tên hiệu Mai Tăng không hề thấy có pháp danh. Tôi cũng nghĩ nếu cụ đã quy y từ nhỏ, thì lúc lánh mình ở chùa Ông Núi, muốn thọ giới cụ tức thì thầy thế độ không ai khác hơn vị sư trụ trì tại chùa. Có thế mới giữ kín được hành tung của cụ. Tôi cũng muốn biết hành trạng của vị sư này, để thông qua đó đoán định thử có phải vị thầy thế độ cho cụ chăng, bởi lẽ một trí thức khoa bảng, am hiểu Thiền lý, đã từng làm đến ấn quan hàm chánh tứ như cụ không thể không chọn minh sư để cầu pháp. Ðiều mong muốn ấy của tôi hiện nay và có lẽ mãi sau này cũng khó thỏa mãn bởi chùa Ông Núi đã bị thiêu hủy trong chiến tranh vừa qua, đến long vị của lịch đại trụ trì từ tổ khai sơn Lê Ban đến vị Hoà thượng sau cùng thị tịch trong chín năm kháng Pháp cũng không còn thì nói chi đến tự phổ, ngữ lục v.v... nếu có.
Không tìm được từ phía chùa Ông Núi thì thử tìm trong tác phẩm cụ xem sao. Tôi đọc lại những gì cụ đã viết mà tôi hiện có thì chỉ thấy ở bài Linh Phong tự ký có nhắc đến "tự tăng" và ở bài thơ Phỏng Linh Phong tự, qui chu phong vũ đại tác trong tập Tiên nghiêm Mộng Mai ngâm thảo do hai bà con gái của cụ ký lục thấy có câu "Khước lạ Thiền phòng tiếu bất lưu", ngoài ra chưa thấy ở đâu nữa.
Ở bài Linh Phong tự ký, chữ tự tăng được lặp lại hai lần trong một đoạn sau đây:
“Sơn cư vô sự, nãi sưu cầu Sơn Ông di tích, vô bi ký khả trưng, chỉ tầm đắc tàn chi tệ biên, hữu biên niên kỷ nguyện giả... Hựu đắc Sơn Ông thử thuyên Pháp Hoa kinh giải nhất tạng, nhị bách du bản, dữ ngọc thạch đề chương... phàm thất, khỏa, triệu cực cổ. Tấn toại phất thức, tàng ư tiểu khiếp, tịnh dữ Pháp Hoa kinh tạng, phú tự tăng trân thủ chi. Diệc hữu Sơn Ông đề vịnh, mặc tích tam sổ chi, tự tăng bất tri, dĩ thủ nhi hồ họa tượng hĩ! Tấn bối triễn họa tương quan chi, đa phân tích bất hiểu, thậm khả tích dã!”
Dịch: “Ở trong núi không việc gì làm, (Tấn tôi) bèn tìm tòi di tích của Ông Núi, không văn bia làm chứng, chỉ tìm được giấy rách sách nát có chép năm ghi tháng... Lại được hơn hai trăm tấm ván khắc trọn bộ "Pháp Hoa kinh giải", những mộc bản này do chính tay Ông Núi sắp xếp, cùng khuôn dấu bằng đá quí... được bảy cái khắc kiểu chữ triện rất xưa. Tấn tôi bèn phủi lau sạch bụi, đặt vào tráp nhỏ, cùng với mộc bản bộ kinh Pháp Hoa, giao cho tự tăng cất giữ cẩn thận như cất giữ vật quí. Cũng có đôi ba tờ giấy có dấu chữ Sơn Ông đề vịnh nhưng tự tăng chẳng biết, đã đem bồi bức vẽ tượng!... Tấn tôi lật bề lưng bức tượng mà xem thì phần lớn chữ hiện rõ nhưng chẳng hiểu được, rất đáng tiếc!” (2)
Tự tăng tức "sư ở chùa", trỏ vị sư trụ trì chùa Linh Phong lúc ấy chứ chẳng ai khác. Ở bài thơ "Phỏng Linh Phong tự..." câu "Khước tạ Thiền phòng tiếu bất lưu" nếu dịch theo nghĩa đen thì "Từ giã phòng sư ở, cười mà chẳng giữ lại" Người từ tạ ra về là cụ Ðào Tấn, người cười mà chẳng cầm cụ ở lại là sư trụ trì chùa Linh Phong lúc ấy chứ chẳng ai khác. Ở cứ liệu trước, tự tăng đã không biết bảo quản tốt di tích của Ông Núi khiến cụ phải than phiền. Ở cứ liệu sau "Nhà sư trong thiền phòng" không biết cầm cụ lại để cụ rời khỏi chùa thì gặp mưa gió lớn. Tự tăng trước và nhà sư sau có thể là một người cũng có thể là hai người khác nhau bởi vì khi cụ lánh mình ở chùa (giữa 1885-1886) đến lúc cụ trở lại thăm chùa mà làm bài thơ này (sau khi về hưu - 1904) cách nhau gần hai mươi năm và tự tăng trước và nhà sư sau, qua lời kể của cụ mà tôi vừa nói, thì không thể là đạo sư của cụ được. Hơn nữa, tuy cụ thường tự xưng "Sư Mai ở Linh Phong", nhưng từ lúc ở chùa, rồi trở lại làm quan cho đến khi hưu khi chết cụ không hề xuống tóc, không mặc nâu sồng, không ăn chay trường, mà vẫn giữ phong thái, và nếp sống của nhà Nho. Càng nghiên cứu những sự kiện trên tôi càng nghiêng về giả thuyết cụ chỉ "đầu Phật" chứ không "đầu Sư", tự mình làm tăng, tự mình đặt hiệu Tiểu Linh Phong Mai Tăng. Thông qua tên hiệu này, rõ ràng cụ muốn tỏ cho đời biết cụ từng có lúc ẩn tại Linh Phong. Còn mai là tên một loài cây có hoa có phẩm chất cao quí mà cụ từng ưu ái. Phẩm chất ấy tương tự như đức tính của bậc quân tử mà cụ từng tu dưỡng. Chọn mai làm tên hiệu vừa bày tỏ gốc gác ở làng Nho vừa nói lên ý hướng thăng tiến tu học. Ðọc bài thơ trích sau đây ta sẽ thấy cụ trân trọng biết bao ngọn núi ngôi chùa mà cụ mang tên.
Ðối với núi và chùa Linh Phong - nơi đã cưu mang cụ trong những ngày ẩn tu - bằng thơ văn, cụ đã nhiều dịp bày tỏ lòng biết ơn và tình lưu luyến. Trong số thơ văn, nói đến chùa Linh Phong đáng chú ý có bài Linh Phong tự ký, Mai Tăng tiểu chiếu và Phỏng Linh Phong tự, qui chu phong vũ đại tác. Năm Quí Mão, Thành Thái thứ 15 (1903), cụ đang làm Thượng thư bộ Công tại triều, nhân lúc rảnh cụ soạn bài Linh Phong tự ký. Ðây là một bài văn xuôi, bằng chữ Hán, dài khoảng 1400 chữ, tác giả đã miêu tả núi và chùa Linh Phong kể lại tường tận sự tích cùng di tích Ông Núi, sự tích cùng sự trạng chùa từ lúc khai sơn đến ngày tác giả ẩn tu tại đây. Tác giả có trưng dẫn hoành phi và liễn đối của chúa Nguyễn sắc tứ và ngự đề, cùng điểm xuyết mấy câu đối chính mình đề vịnh. Cuối bài tác giả viết: “Bộ thư chi hạ, lược thuật kỳ ngạnh khái; mệnh như Thụy Thạch Nhữ Tuyên bốc ký chi, vị Linh Phong thiền tự nhất tiểu thừa, dĩ miễn nhân một, phi vãn dã”. Dịch: “Nhân rỗi việc sổ sách tại bộ, lược thuật những nét chính, sai các con là Thụy Thạch, Nhữ Tuyên ghi lấy, vì chùa Linh Phong là phương tiện nhỏ đưa người đến giác ngộ (nên phải viết) để sự tích chùa khỏi bị vùi lấp chứ chẳng phải làm văn vậy” (2).
Tuy tác giả nói không dụng ý "làm văn", nhưng giá trị nội dung và hình thức bài ký này từng được người đương thời đánh giá cao, được xem như mẫu mực của thể ký, được phổ biến cả nước dưới hình thức sao chép. Chính bản chữ Hán mà tôi đang dùng để viết bài này là bản chép tay của cụ Hà Trì Trần Ðình Tân (đỗ Cử nhân khoa Ất Mão 1915). Bản cụ Hà Trì cũng được sao lại từ bản chép tay của cụ Biểu Xuyên Ðào Phan Duân (đỗ Phó bảng học khoa Ất Vị 1895). Có người, như nhà cách mạng Hoàng giáp Nguyễn Thượng Hiền đọc bài ký này rồi khởi hứng viết nên bài "Mộc y ông thuyết" vừa nhắc chuyện xưa vừa tán dương tác giả Linh Phong tự ký.
Cũng trong năm 1903, mùa hè, cụ có đề một bài thơ dưới bức ảnh bán thân của cụ. Bài thơ như sau:
Dịch nghĩa:
Mai Tăng tự đề tại bộ Công trong Hoàng cung vào tháng cuối mùa hè năm Thành Thái thứ 15 (1903), lúc 59 tuổi.
Tạm dịch thơ:
Bài thơ có phong thái Thiền. Có điều lạ là ở câu 3 cụ bảo cụ xa chùa Linh Phong đã ba mươi năm. Nếu nhẩm tính từ lúc cụ ẩn tu tại chùa khoảng giữa năm 1885 đến khi cụ làm bài thơ này mùa hè năm 1903 thì chưa đầy 18 năm. Hay thậm xưng cũng là một ngôn ngữ Thiền được sử dụng để bày tỏ tính phá chấp?
Sau khi về hưu, năm Giáp Thìn Thành Thái 16 (1904), có lần cụ trở lại thăm chùa Linh Phong. Cụ đi bằng ghe, từ nhà cụ theo đường nước, dẫn xuống xã Phước Thuận, vào đầm Thị Nại, rồi men theo bờ ngự hàm các xã phía đông hai huyện Tuy Phước - Phù Cát mà ngược lên bắc thì tới gần Kẻ Thử (xã Cát Chánh). Từ đó rời ghe đi bộ lên chùa chẳng bao xa. Lượt về cụ cũng đi bằng ghe, rời khỏi chùa thì gặp mưa to gió lớn. Cụ kể lại chuyến đi này trong bài thơ sau đây:
Dịch nghĩa:
Tạm dịch thơ:
Ðọc lại câu cuối "Phong vũ tống qui chu, gió mưa tiễn thuyền về" mà cũng có nghĩa "gió mưa đẩy thuyền đi về hướng nam" thì gió nầy nhất định là gió bấc. Gió bấc lại thường thổi về mùa đông. Mùa đông mưa nhiều thì nước đầm càng sâu, gió bấc thổi mạnh thì sóng trên đầm càng to. Nếu phong vũ đại tác xảy ra trên đầm Thị Nại vào mùa đông thì có nguy cơ làm đắm thuyền cụ, đe dọa đến tính mạng cụ và những người đồng thuyền. Nếu xảy ra vào những mùa khác thì nguy cơ ít hơn nhưng cũng khiến cho người trong thuyền phải trải qua một phen vất vả và lo sợ. Ấy thế mà cụ đã bình thản nhẩn nha kể lại sự biến vừa qua, hơn thế nữa còn xem mưa to gió lớn như một phương tiện tốt mà Ông Núi đã để cụ rèn luyện tinh thần và nghị lực. Nếu không có được một công phu hàm dưỡng cả Tâm học của Nho giáo lẫn Thiền học của Phật giáo thì dễ gì có được một nhân sinh quan lành mạnh đến thế?
Trở lại với nhóm từ "Tiểu Linh Phong Mai Tăng". Nếu viết được như thế thì thì tăng là danh từ chung, có nghĩa là nhà sư, thì từ tăng không viết hoa. Nếu viết tắt "Mai tăng" thì tùy theo nơi mà không viết hoa như ở bài thơ Tặng Mai tăng do chính Nam quốc Mai tăng (có pháp phục, có mão tì lư hẳn hoi) làm tặng mình thì từ tăng không viết hoa. Nhưng ở những nơi khác như dưới bức hoành "Hương Thảo Thất" chẳng hạn, thì từ Tăng viết hoa bởi Mai Tăng đã trở thành tên hiệu của cụ Ðào Tấn, thuộc loại chữ danh từ riêng. Bạn đọc chớ cho tôi nhiễu sự. Khổ quá, cũng bởi chữ Hán không có lối viết hoa, bởi Mai Tăng từng có lúc tự làm tăng, bởi Mai Tăng thường tự xưng mình là Mai tăng (với chữ tăng viết thường)... nên tôi phải dài dòng. Lại nữa, sau khi "hạ sơn" để trở lại "hoạn lộ", thỉnh thoảng Mai Tăng vẫn xưng là Mai tăng. Hay Mai Tăng cho rằng mình trở lại làm quan cũng không khác hành động "thỏng tay vào chợ" (thùy thủ nhập triền) của Thiền giả đạt đạo? Vả lại Bồ tát hạnh không phải chỉ để dành riêng cho tu sĩ xuất gia tu tập và quả vị Bồ tát không chỉ có tăng sĩ mới đạt được mà cư sĩ tại gia cũng được phép tu hạnh này và cũng đã có người đạt quả vị này. Lịch sử Phật giáo từng chép Duy Ma Cật ở Ấn Ðộ thời Phật tại thế, Bàng Uẩn ở Trung Hoa và Trần Quốc Toản đời Trần ở nước ta đều là những cư sĩ tại gia, đều chứng quả vị trong thập địa Bồ tát. Cho nên cũng không phải nhọc sức tìm xem Mai Tăng có tên trong Tăng tịch không? Có được Tòng lâm tỉnh ta xưa nay thừa nhận là tăng không? Và cũng không cần phải chính danh cho Mai Tăng mà chỉ nên xem thử Mai Tăng đã làm được những gì. Việc mà Mai Tăng đã làm thì nhất định có nhiều nhưng làm mà không mong cho người biết cũng là một hạnh trong Bồ tát hạnh, cho nên ngày nay ta chỉ biết được một ít nhờ thư tịch có ghi chép mà thôi. Ðó là: “Thành Thái Ất Vị niên, Tấn kị Ðông thự, dĩ sự tấu đạt Tây cung, dụ thỉnh ân chỉ. Phụng bang xuất nội thảng ngân thát thập hạnh, mệnh tỉnh thần hiềm khuyến đồng nhân hội kim, đắc nhược can, đổng suất trùng tu yên, Ðinh Dậu cửu niên bát nguyệt lạc thành. Tấn vị năng qui phỏng, nhi tùng cố hương lai giả, giai vị Linh Phong quang cảnh, hoán nhiên nhất tâm, khả hỉ khả ủy” (Linh Phong tự ký). Dịch: “Năm Ất Vị niên hiệu Thành Thái (1895), Tấn tôi thự Thượng thư bộ Công, đem chuyện chùa Linh Phong tâu lên Tây cung để cầu xin ấn chỉ (Tây cung) lệnh xuất kho trong cung 70 lạng bạc, sai đỉnh thần quyên thêm người trong tỉnh được bao nhiêu thì gộp chung với số bạc đã ban mà đốc suất việc trùng tu chùa. Tháng tám năm Ðinh Dậu, nhằm năm thứ 9 niên hiệu Thành Thái (1897) thì lạc thành. Tấn tôi chưa thể về thăm nhưng theo lời người làng ta ai cũng nói: "Quang cảnh chùa Linh Phong nay trở nên sáng sủa và mới mẻ!" Ðáng mừng! Ðáng yên tâm!” (Trích Linh Phong tự ký) (2)
Qua cứ liệu trên, ta thấy rằng từ lúc vận động trùng tu chùa Linh Phong đến khi lạc thành chỉ trong vòng hai năm (1895-1897). Công trình thực hiện nhanh chóng là nhờ có sự tán trợ của bà Thái hậu (Tây cung) và sự chỉ đạo trực tiếp của bộ sở quan, bộ Công, mà người đứng đầu là Thượng thư Ðào Tấn. Lần trùng tu này có qui mô lớn hơn các lần trước, đẹp đẽ và vững chãi hơn các lần trước, nếu không bị ngọn lửa chiến tranh thiêu hủy vào năm 1965 thì chắc chắn nó vẫn còn đứng vững tới hôm nay. Có thể nói mà không sợ lầm rằng nếu không có sự vận động của cụ Ðào Tấn thì vị tất đã có lần trùng tu Linh Phong tự nói trên.
Và, việc thứ hai là bằng văn thơ cụ đã ghi lại sự tích chùa Ông Núi cùng bày tỏ sở kiến về Thiền đạo, những văn thơ ấy đã làm phong phú thêm dòng văn học Thiền trong lịch sử văn học nước nhà.
Với bấy nhiêu ấy, nhà Nho, nhà văn, nhà nghệ sĩ, ông quan lớn Ðào Tấn không phải thẹn khi mang thêm tên hiệu Mai Tăng hoặc tự xưng là Tiểu Linh Phong Mai Tăng vậy.
1.- Xem "Thư mục và tư liệu về Ðào Tấn", Vũ Ngọc Liễn chủ biên, UBKHKTNB, Sở VHTTNB và Nhà Hát tuồng Nghĩa Bình xuất bản, Qui Nhơn - 1985, tr.7 - tr.9
2.- Xem "Mai Viên cổ sự" của Lộc Xuyên Ðặng Quí Ðịch. Văn Lang xuất bản 1994, bài Linh Phong tự ký với đầy đủ nguyên văn, phiên âm, dịch nghĩa, tr.51 - tr.65
3.- Trong "Tiên Nghiêm Mộng Mai ngâm thảo" do hai bà con gái của cụ Ðào Tấn là Trúc Tiên và Chi Tiên ký lục, Tịnh Ba phụng sao năm 1964, bản photocopy lưu trữ tại tủ sách của Lộc Xuyên Ðặng Quí Ðịch
4.- Từ biện trong các từ ghép Hiệp biện, Tham biện, Thương biện... còn được thay bằng từ tá nên còn gọi Hiệp tá, Tham tá, Thương tá.
Cách thành Đồ Bàn hơn ba mươi dặm về hướng đông bắc, quanh các thôn Phương Phi, Phương Thái thuộc vùng biển đều là núi non cả (trong quần sơn này) nổi lên một ngọn núi cao chót vót, xinh xắn, đứng một mình, đó là ngọn núi có chùa Linh Phong. (Nơi này) rừng suối cây đá có vẻ đẹp kín đáo và thanh cao không đâu bằng. Có thể nói đây là ngọn núi đẹp nhất tỉnh Bình Định.
Cổng tam quan Chùa Linh Phong ngày nay - Ảnh Hoàng Tuấn (2013)
Vào năm thứ mười một đời vua Hiếu Minh (Quốc chúa, Minh Vương, Nguyễn Phúc Chu) ở triều trước nước ta, nhằm năm thứ 23 niên hiệu Chánh Hoà nhà Lê, tức năm nhâm Ngọ (1702) có Mộc Y Sơn, ông tu tại núi này. Kết vỏ cây làm áo, mùa đông mùa hè vẫn mặc như thế, ung dung sống bên sườn núi, trong hang đá, ra vào không ai định trước được. Người trong vùng chẳng biết họ tên ông (nhân thấy ông ở trong núi, gọi ông là Sơn Ông (ông Núi). Khảo tự phổ riêng của chùa (Linh Phong) cùng bài vị các đời trụ trì thờ tại chùa, thấy có ghi ông họ Lê tên Ban, người ở kinh đô Trung Quốc. Gọi Sơn Ông là Lê Ban chưa biết đúng không hoặc ông là người giấu tên trốn đời, sống hoà mình vào đám người chằm nón đốn củi dệt chiếu câu cá cũng chưa biết chừng! Ông ở núi này được vài năm thì chọn lưng chừng núi chỗ có con suối sâu và dài, phát cây hoang, vác đá lớn xếp chỗ nọ, lắp chỗ kia, lấy thanh tre làm một cái am nhỏ (công việc xây dựng nhanh chóng như có quỷ thần dị vật ngầm giúp). Am cất xong, đặt tên là: "Dũng tuyền tự " gối đầu vào ngọn núi rất cao, cạnh con suối trong luôn có nước chảy, hai bên có mây già đá lạ, cây kỳ, hoa nổi tiếng, chỗ cao chỗ thấp chứa sẵn cái vẽ rất yên tĩnh và rất sạch sẽ. Cảnh trí này đều do tay ông sắp đặt lấy với tâm hồn của người thợ, lập riêng thành thế giới cỏn con giữa cõi trời và cõi người. Phía tả chùa có gian nhà đá, nóc bằng như trần nhà, hai bên thẳng như vách, giữa như giường nằm, ngoài như bậc thềm, như sân. Trên mặt sân đá về phía hữu có chỗ lõm xuống, có truyền thuyết cho rằng đây là cối giã gạo của Sơn Ông. Hoặc cho rằng: "Ông chứa nước nơi này để đổ vào nghiên khi mài mực". Thiên nhiên sắp đặt, nghiễm nhiên thành một ngôi nhà nhỏ. Lúc rảnh rỗi ông thường đến chơi trong nhà đá, một mình ngồi niệm kinh, nay do chỗ này mà tưởng tượng được cách sinh hoạt của ông.
Tương truyền ban ngày ông ở trong núi đốn củi, bó thành bó lớn, phải sức của hai người khiên nổi, vậy mà chỉ một mình ông vác xuống chân núi, đặt bên đường. Người qua lại đều biết là chỉ của Sơn Ông, bèn đem rau gạo mà đổi. Ông hoặc đồng tử xuống núi lấy gạo rau rồi đi, chưa từng đối đáp một ai về việc đổi chác nhiều ít thế nào. Ngày khác cũng vậy như thế được mười mấy năm không thể biết được tung tích. Núi nhiều cọp chỉ một mình ông ở với một đồng tử, người với cọp beo như quen biết nhau, quên vật quên mình. Xưa có ông Đồng Cảnh Đạo ẩn trong núi Thương Lạc, mặc áo lá cây, gảy đàn ca hát, tự lấy thế làm vui, trùng độc và thú dữ qua lại bên cạnh. Như Sơn Ông đây là nhà sư (mà hành tung có khác gì bậc ẩn giả kia). Ôi (nếu không phải thế thì) sao dạo biển chơi mây rồi cuối cùng thì gửi dấu nơi núi này?
Kịp đến năm thứ 8 đời vua Hiến Ninh (Ninh Vương, Nguyễn Phúc Chú) nước ta, nhằm cuối năm Vĩnh Khánh thứ 4, đầu năm Long Đức nguyên niên nhà Lê, tức cuối năm Nhâm Tý đầu năm Quí Sửu (1732) vua khen ông là bậc chân tu, sai sùng tu chùa. Chùa tranh thành chùa ngói bắt đầu từ đây. Vua ban tên chùa là "Linh Phong thiền tự", bên tả khắc “Vĩnh Khánh Quí Sửu xuân vương chính nguyệt” (tháng giêng năm Quí Sửu Vĩnh Khánh nhà Lê), bên hữu khắc “Quốc chúa ngự đề” (chính tay Quốc chúa ghi) và ban ngự liễn
"Hải ngạn khởi lương nhân, pháp vũ phổ thiên tư Phật thổ
Linh Phong ngưng thụy khí, tường vân biến địa ấm nhân gian"
(Bờ biển dấy nhân hay, mưa khắp trời nhuần Phật thổ
Núi Linh ngưng khí tốt, mây lành rợp đất hộ nhân gian)
Bên tả khắc “Quí Sửu cốc đán” (Buổi sáng tốt năm Quí Sửu). Bên hữu khắc "Quốc chúa ngự đề". Dưới bốn chữ "quốc chúa ngự đề" ở tấm biển và ở câu liễn này đều có khắc “Thần ngự bửu tỷ” (ấn báu Thần ngự) của nhà vua. Vua còn ban cho Sơn Ông hiệu Tịnh Giác Thiện Trì Đại Lão Thiền Sư.
Vào năm thứ 3 đời vua Hiếu Võ (Võ Vương Khúc Khoát) nước ta, nhằm năm thứ nhì niên hiệu Cảnh Hưng nhà Lê, tức năm Tân Dậu (1741), vua sắc triệu Sơn Ông về kinh để tham vấn về giáo lý nhà Phật. Ông chống gậy tầm xích đến chơi nơi vua đóng đô, chưa đầy tháng thì đã từ tạ lui về. Vua ban một bộ áo cà sa có vòng ngọc móc vàng làm pháp phục, ân sủng thật hiếm có.
Trong loạn lạc thời Tây Sơn chùa bị đổ nát, chính là lúc ông qua đời, Tăng chúng các chùa họp lại lo việc mai táng cho ông, tháp xây bên hữu chùa. Tại tháp có câu liễn:
"Quyển Thạch tiệm thành sơn, thản thản u trinh Thường Lạc thổ
Chúng lưu nan vi thuỷ, mang mang không tế Động Đình Thiên"
(Góp đá dần thành non, u nhã phẳng phiu đất Thường Lạc
Họp dòng khó nên nước, hư vô man mác trời Động Đình)
Bên hữu viết : “Ngụy Thái Đức bát niên” (Năm thứ 8 hiệu Thái Đức nhà Tây Sơn – 1785), nay vẫn còn. Do đó biết ông viên tịch thời Tây Sơn.
Sau khi Thế tổ Cao Hoàng Đế nhà Nguyễn ta định rồi. Triều đình vâng mệnh hỏi han đến tình trạng chùa Linh Phong. Năm Gia Long thứ 7 Mậu Thìn (1808), triều đình phụng mệnh truyền ý chỉ của Thánh Mẫu Hiếu Khương Hoàng Hậu rằng "Vật thường trụ của chùa Linh Phong (đã đổ nát) không ai được lấy càn, để đợi sùng tu". Năm Minh Mệnh thứ 7, Bính Tuất (1826) vua sắc trấn thần đệ tương pháp phục triều trước đã ban cho Sơn Ông để vua xem, rồi ra lệnh theo cách thức cũ chế một bộ cà sa mới có móc vàng và vòng (kim loại) tạc hình voi, ban cho chùa Linh Phong làm vật để thờ ông. Vua còn lệnh xuất kho trong cung một trăm hai mươi lạng bạc, sai Trấn thần trùng tu chùa, nên đài giảng kinh ấy, ghế ngồi nói Pháp ấy trang nghiêm không đâu bằng, cỏ non thông lớn đều thấm nhuần ơn mưa móc mà Sơn Ông chưa kịp thấy. Có thuyết nói rằng: "Khoảng niên hiệu Minh Mệnh (một đêm) vua không được khoẻ, vừa chợp mắt thì mộng thấy được một nhà sư già mặc áo vỏ cây, đứng bên giường ngọc quạt cho vua. Rạng sáng hôm sau mình rồng khoẻ khoắn, vua đem điều chiêm bao nói cho quan chấp chánh biết, nhân đó nhớ chuyện Mộc y Ông ở chùa Linh Phong về triều trước, vua làm lấy lạ (cho sự linh dị của Sơn Ông) bèn ra lệnh trùng tu chùa. Ôi! Ông cũng lạ lùng thay! Mặc áo vỏ cây làm sư, cửa vàng yết chúa, nhà đá niệm kinh, giường ngọc hiển mộng, qua lại cõi trần sắc tướng không không, nay tên ông cùng tên núi đều truyền, đáng làm thắng tích ở tỉnh nhà Bình Định.
Giữa niên hiệu Kiến Phúc, Hàm Nghi, Đào Tấn tôi bỏ quan về nhà ở phía nam kinh đô, gửi thân nơi cửa thiền để tránh loạn, kiệu chàm gặp trúc thường qua lại núi này chùa này. Người xưa một năm ở núi quá nửa. Đào Tấn tôi lúc bấy giờ cũng tương tự như thế. Lúc ở núi, nhân hứng có đề mấy câu vụng về, nay ghi lại đây vài câu liễn:
"Thập niên hồ hải qui lai mộng
Nhất kỉnh yên hoa tự tại thiên"
(Một cảnh khói hoa trời tự tại
Mười năm hồ hải giấc qui lai)
"Giai sĩ từ bi ninh thị Phật
Sơn ông danh tự bán nghi tiên"
(Đây học trò lành âu cũng Phật
Đó ông núi gọi nửa ngờ tiên)
Lại đề một câu liễn nhỏ tại nơi ở là ngôi nhà nhỏ cạnh ngôi chùa:
"Thạch thất niên thiên huỳnh hổ ngoạ
Hoạ trì thập nguyệt bạch liên khai"
(Động đá cọp vàng nằm ngàn thuở
Ao hoa sen trắng nở đầu đông)
Đó là tả cảnh thật. Ở núi rỗi việc, bèn sưu cầu di tích của Sơn Ông, chẳng có văn bia làm chứng, chỉ tìm được giấy rách sách nát có đề năm ghi tháng, tham khảo sách Đại Việt Sử Ký cùng thực lục tiền biên của bản triều (đối chiếu với tàn chỉ tệ biên) để tìm chứng cứ đích xác, được điều nào ghi điều nấy. Lại được hơn 200 tấm ván khắc trọn một bộ "Pháp hoa kinh giải" cùng con dấu riêng bằng đá quí, khắc: “Bán sơn trung tự” (chùa ở lưng chừng núi) khắc “Khai sơn Dũng Tuyền tự” (lập nên chùa dũng tuyền). Khắc: “Nhân hiệu Sơn Ông” (người có tên hiệu là Sơn Ông), khắc: “Thạch trung kiến ngã” (tìm ra trong đá), khắc: “Tĩnh phương” (nơi yên tĩnh), khắc: “Tịnh tính” (tính vắng lặng), khắc: “Thạch thất” (nhà đá). Tất cả được 7 cái, lối chữ triện rất xưa. Đào Tấn tôi lau sạch bụi, đặt vào tráp nhỏ cùng một bản hộ "Pháp hoa kinh giải" giao cho tự tăng cất giữ cẩn thận. Cũng có đôi ba tờ giấy có dấu chữ Sơn Ông để vịnh như tự tăng chẳng biết đã lấy bồi bức mà vẽ tượng! Tấn tôi lật bề lưng bức tượng mà xem, phần lớn chữ hiện rõ nhưng không hiểu, thật đáng tiếc!
Chùa Linh Phong 1964
Niên hiệu Thành Thái (1895) Tấn tôi thư Thượng thư bộ công, đem chuyện chùa Linh Phong tâu lên Tây Cung để cầu xin ấn chỉ Tây Cung lệnh xuất kho trong cung 70 lạng bạc, sai tỉnh thành quyên thêm người trong tỉnh được bao nhiêu thì gọp chung với số bạc đã ban mà đốc thúc việc trùng tu chùa. Tháng tám năm Đinh Dậu, nhằm năm thứ 9 niên hiệu Thành Thái thì lạc thành.
Đào Tấn tôi chưa thể về thăm nhưng theo lời người làng ra, ai cũng nói: "Quang cảnh chùa Linh Phong nay trở nên sáng sủa và mới mẻ!" Đáng mừng! Đáng yên tâm! Nhân rổi việc sổ sách tại bộ lược thuật những nét chính, sai các con là Thoại Thạch Nhữ Tuyên ghi lấy, vì chùa Linh Phong là phương tiện nhỏ đưa người đến giác ngộ (nên phải viết) để sự tích chùa khỏi bị vùi lấp chứ chẳng phải làm văn vậy.
2. Những truyền thuyết về Ông Núi:
Chùa Sắc tứ Linh Phong - người địa phương thường gọi là Chùa Ông Núi, có tên chữ đầy đủ là “Dũng Tuyền Linh Phong Thiền Viện”, tọa lạc trên đồi núi Phương Phi, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định, ở độ cao gần 100m so với mặt nước biển. Địa danh lúc Tổ khai sơn là ấp Phương Phi, quận Phù Ly, phủ Qui Ninh, trạm An Hành, thuộc dinh Quảng Nam (năm 1686). Nay thuộc thôn Phương Phi, xã Cát Tiến, Phù Cát.
Tương truyền rằng, niên hiệu Chánh Hòa (1686) Tổ Giám Huyền cùng đệ tử là Ngài Tánh Ban (thường gọi là Lê Ban) theo thương thuyền từ Bắc vào Nam, đến bờ biển Phương Phi thì có sóng to gió lớn, thuyền buột phải neo vào bờ. Tổ Giám Huyền (huý Như Diệu, đời 33, do Tổ Trí Bảng từ Trung Hoa truyền sang chùa Bạch Mai, Hà Nội) cùng Ngài Tánh Ban nhàn du khắp miền Phương Phi, nhân thấy quang cảnh, địa thế rất thuận duyên cho việc ẩn tu thiền định nên đã sớm chia tay với chủ thương thuyền. Thầy trò ở lại. Ngài Giám Huyền đã chọn ngọn núi đá Phương Phi do hàng ngàn tản đá lớn nhỏ chất chồng lên nhau mà tạo thành làm nơi dừng chân tụ tập. Dãy núi đá này có nhiều kỳ nham cổ thụ, thạch cốc, hang động kỳ bí, hoang vu. Trên khu rừng núi hoang sơ, không dấu chân người này, có nhiều thú rừng như voi, cọp, beo, nai, vượn, trăn, rắn… đang sinh sống. Tổ Giám Huyền và Ngài Tánh Ban đã mở đường lên gần đỉnh núi, dừng lại trên một tảng đá lớn, cạnh đó có một hang rộng, dòng nước như thác từ trên cao đổ xuống bất tận. Hang này có tên là “Dũng Tuyền Thạch Cốc” (hang đá có nước xối mạnh) - là tiền thân của “Sắc Tứ Linh Phong Thiền Viện” (nhân dân địa phương gọi hang này là “Hang Ông Già”). “Dòng nước này lại lao mình vào một hố thẳm khác, tưởng chừng như mất dạng. Nhưng có sự huyền diệu nào đó, dòng nước lại lộ diện trước một hang đá khác rộng khoang 18m2 - người dân gọi là “Hang Ông Núi” (có lẽ “hang Ông Già” là nơi Tổ Giám Huyền tụ tập, còn “hang Ông Núi” là của Ngài Tánh Ban?) - dòng nước lại băng qua đồi núi sỏi đá gồ ghề dồn về suối Hàm Long - nơi đây sau được kiến tạo nên Chùa Ông Núi”.(1)
Năm Bính Tý (1696), sau 10 năm ẩn tu ở “Dũng Tuyền Thạch Cốc”, nhằm niên hiệu Chánh Hòa, Tổ Giám Huyền vâng sắc chỉ triều đình về tái thiết chùa Quang Minh Hộ Quốc Trường An Quan Tự (nay là chùa Quang Hoa thôn Luật Bình, xã Phước Quang, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định). Ngài Tánh Ban còn lại, một mình ẩn tu thiền định ở “hang Ông Núi”. Ngài là một bậc đạo cao, đức trọng, lại có nhiều mật hạnh kỳ bí nên đã lưu lại trong sử sách và truyền thuyết dân gian nhiều huyền thoại nhiệm mầu bất khả tư nghì.
Tương truyền rằng Ngài ẩn tu lâu năm trên dãy núi cao nhiều thú rừng (như voi, cọp, beo, trăn, hưu, vượn…), không liên hệ với dân cư ở vùng ruộng đồng và miệt biển, người dân cũng không có ai dám lên núi. Ngài lột vỏ cây làm y phục (nên người dân gọi Ngài là ông Núi chăng?) - đúng Ngọ dùng một bữa ăn, toàn là hoa quả rau củ do vượn, voi dâng cúng. Ngài sống chung với thú rừng.
Lúc cần gạo - như phục dược, ông đem bó củi đặt ở chân dốc - nhân dân quanh vùng thấy biết, đem gạo treo ở một cành cây gần đó. Về đêm, ông xuống dốc nhận gạo về hang. Có truyền thuyết, thỉnh thoảng vượn, gấu, beo thấy gạo biết là của ông - đã cõng gạo về hang cho ông. Trong sách “Địa Dư Bình Định”, cụ Bùi Văn Lăng đã có ghi nhận: “Ông Núi hái củi đổi gạo; tu hành đắc đạo!”.
Người dân vùng Phương Phi còn kể lại cho các đời con cháu sau này nghe rằng: Ông Núi còn có hai con cọp trắng ngày đêm ở bên hang - luôn giúp ông nhiều việc như hai thị giả trung thành, chí hiếu. Đúng như sách “cổ ngữ” có truyền “Đạo cao long hổ phục; đức trọng quỷ thần kinh”. Đời Chúa Hiếu Võ hoàng đế thứ 2 (1741) niên hiệu Cảnh Hưng - vì nghe biết đạo pháp uyên thâm, đức hạnh kỳ bí của Ngài, đã sắc chỉ trấn thần Quảng Nam triệu Ông Núi về kinh đô để học hỏi diệu lý đạo pháp. Khi Ông Núi trở về, Chúa Hiếu Võ kính phục đức độ, đạo hạnh, học lực uyên bác của Ngài, đã ân tứ một bộ cà sa pháp phục bằng gấm ngọc nạm vàng.
Giờ Tỵ, ngày 19 tháng 6 năm Bính Dần (1747) Ngài đã thị tịch tại “hang Ông Núi” - thọ 81 tuổi. Hai con cọp trắng “thị giả” của ông nằm trước hang, cũng chết sau đó ít lâu. Hai bộ xương đã được dân chúng tôn giữ, thờ phụng trong chùa như pháp bảo (đã bị mất trong khoảng 1778 – 1800). Tuy Ngài đã thị tịch, nhưng dân trong vùng Phương Phi - Cát Tiến vẫn thường được gặp ông khi trong gia đình có người thân bị đau nặng thập tử nhất sinh, hay có bị dịch bệnh - Ông thường đến vào ban đêm, đem theo thuốc trị bệnh, rồi biến mất vào bóng đêm…
Năm 1826, niên hiệu Minh Mạng thứ 7 - nhà vua lâm trọng bệnh, các ngự y đều thúc thủ; đang đêm nhà vua nằm mộng thấy một nhà Sư mặc đồ bằng vỏ cây - ung dung, tự tại bước thẳng đến long sàn, dâng một bát thuốc, cầm quạt phất ba cái, rồi thong dong ra đi. Vua Minh Mạng liền tỉnh giấc mộng, thấy trong người an vui, như không có bệnh gì. Hôm sau, đến buổi thiết triều, nhà vua đem câu chuyện nằm mộng kể cho đình thần nghe; đương thời quan trấn thần Quảng Nam tâu cho vua biết, vị Sư mặc y phục vỏ cây chính là Ông Núi - Ngài Tánh Ban, đã thị tịch cách đây hàng trăm năm ở thôn Phương Phi, quận Phù Ly… Niên hiệu Chánh Hòa, năm Giáp Thân, vua ban “Sắc tứ Dũng Tuyền Linh Phong thiền tự”. Đời chúa Hiếu Ninh hoàng đế, niên hiệu Vĩnh Khánh thứ 5 (1733), sắc chỉ ban hiệu Ông Núi là : “Tịnh Giác Thiên Trì Đại Lão Công Thiền Sư”. Chúa Hiếu Võ hoàng đế đã ân tứ một bộ cà sa pháp phục bằng gấm, nạm ngọc vàng. Thế tổ Cao Hoàng đế vâng lệnh Hiếu Khang Hoàng thái hậu, sắc chỉ trấn thần bảo quản tự vật, chờ lệnh trùng tu. Vua Minh Mệnh sau khi nghe trấn thần tấu lại sự việc của tiền triều, liền sắc chỉ trấn thần đệ nạp cà sa pháp phục của chúa Hiếu Võ đế đã ban cho Ông Núi đem về triều để ngự lãm. Sau, truyền y theo kiểu, sắm bộ pháp phục cà sa mới, phú chuẩn các quan văn ngự y và phú chúc cho cụ Nguyễn Quang Thanh đại diện hoàng tộc đang bộ pháp phục mới đến tại Dũng Tuyền Linh Phong, để phụng thờ Ông Núi và cấp 120 nén bạc tái thiết chùa Linh Phong để truy niệm ân đức Ông Núi đã cứu mạng nhà vua qua giấc mộng.
Cũng theo truyền thuyết của địa phương, thuở xưa ở vùng Phương Phi, có kẻ cõi âm lẫn lộn trong dân chúng, đi chợ mua vật dụng - ai bán đồ nhầm cho họ - nhất là các cô gái mặt trắng, duyên dáng - tiền bán đồ nhận xong thì biến mất. Ông Núi biết được, dạy cho dân chúng “cách thử” tiền, để tránh được nạn này. Khu chợ ở Phương Phi ngày nay, vẫn còn có tên chợ “Cách Thử” (hay Kẻ Thử, cùng nghĩa) là một bằng chứng.
Ông Núi - Tổ Thiện Trì Thiền sư Húy Tánh Ban, đời 34, đệ tử Tổ Giám Huyền đã đắc đạo, thị tịch cách nay đã 260 năm (1746 – 2006) – nhưng công hạnh, đức độ và nhất là những truyền thuyết về Ngài vẫn mãi mãi còn truyền tụng trong lòng dân chúng với sự tôn kính và ngưỡng mộ. Dân gian có câu ca .
“Ai về Bình Định – Phương Phi
Nhớ ơn Ông Núi quên đi sao đành?
Dạy dân Cách Thử đành rành,
Cứu dân tật bệnh, chiến tranh, thiên thời
Gương Người khổ hạnh còn tươi,
Đạo cao, đức trọng sáng ngời núi sông!”
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------Dạy dân Cách Thử đành rành,
Cứu dân tật bệnh, chiến tranh, thiên thời
Gương Người khổ hạnh còn tươi,
Đạo cao, đức trọng sáng ngời núi sông!”
(Kính tặng Thầy Thích Huệ Quang Trụ trì Sắc Tứ Linh Phong) Tháng 2/2006
Mang Viên Long
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------(1) Lược sử chùa Ông Núi của Thích Đổng Quán.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả chuyển từ Bình Định ngày 28.7.2014.
Theo http://newvietart.com
3. Linh Phong ngày nay:Đến Phương Phi, xã Cát Tiến, huyện Phù Cát, nhìn lên dãy núi Bà sừng sững, chạy dài ra biển, du khách thấy nhấp nhô lưng chừng núi mái ngói đỏ tươi ẩn hiện trong thảm xanh cây rừng, đá núi, mây ngàn. Đó là chùa Ông Núi mới được xây dựng, tôn tạo lại. Muốn lên chùa, từ tỉnh lộ rẽ vào vài trăm mét tới chân núi, du khách bắt đầu leo lên những bậc tam cấp bằng đá cổ xưa, loanh quanh theo sườn núi. Con đường rộng chừng 3m, được tạo bởi hàng ngàn bậc đá độc đáo này có từ lúc xa xưa và hầu như tồn tại một cách vĩnh hằng, không bị mai một vì năm tháng. Hai bên đường cây chen đá, còn nhuốm vẻ tự nhiên, hoang sơ, ít có bàn tay con người can thiệp vào.
Hàng duối lâu đời dưới chân núi - Ảnh Hoàng Tuấn (2013)
Cổng chùa từ dưới chân núi - Ảnh Hoa Khá (2013)
Hai hàng duối cổ nhìn từ trên núi xuống như hai rồng chầu về chùa- Ảnh Hoàng Tuấn (2013)
Đường lên chùa khi mùa hoa phượng nở - Ảnh Hoàng Tuấn (2013)
Khoảng nửa tiếng đồng hồ leo dốc là du khách đến nơi chùa toạ lạc. Đó là một khoảnh đất rộng, tương đối bằng phẳng, “lưng dựa non cao, mặt trông ra đầm Hải Hạc (nay gọi là đầm Thị Nại). Gần chùa có suối trong lượn quanh, vị nước vừa ngọt vừa mát lạnh, cỏ hoa xinh đẹp, cảnh trí u nhã kỳ bí, cũng là cảnh đẹp đáng xem của một phương vậy” (Đại Nam Nhất thống chí). Từ đây có thể phóng tầm mắt nhìn xa về phía Nam. Đồng lúa mênh mông, con sông Chùa uốn lượn, bờ biển chạy dài, sóng biển tung bọt trắng xoá. Một không gian thật hoàn hảo trữ tình.
Toàn cảnh bán đảo Phương Mai nhìn từ chùa Linh Phong - Ảnh Hoa Khá (2013)
Cổng tam quan chùa trên núi (nhìn từ bên trong chùa) - Ảnh Hoàng Tuấn (2013)
Dưới cầu là nguồn nước từ hang Tổ chảy về - Ảnh Hoa Khá (2013)
Chưa hết, nếu du khách đi tiếp lên sườn núi phía Tây Bắc sẽ bắt gặp nhiều tháp cổ đây đó xen với đá núi, cây rừng. Đây là nơi “tịch” của các vị sư của chùa. Có những hòn đá được tạo bởi nhiều hòn đá chồng lên nhau, chênh vênh, kỳ dị- tạo thành cảnh: “cây bồng đá, nước trên non... vừa ngoạn mục vừa rùng rợn” (Lịch sử chùa ông Núi -2001). Nhiều hang đá thâm u trong trùng điệp gộp đá. Một số hang được thờ Phật bên trong, du khách có thể đến thắp nhang, thăm viếng. Theo thầy Thích Đổng Quán: có trên 10 hang đá như vậy. Có những hang rất rộng, chứa cả tiểu đoàn quân. Trước kia, Cách mạng dùng nơi này làm chỗ ẩn náu đánh Mỹ.
Ảnh Hoa Khá (2013)
Hòn cóc bên tả trước chùa - Ảnh phodong (2013)
Khu vực tháp tổ - Ảnh phodong (2013)
Đường lên hang tổ - Ảnh Hoàng Tuấn (2013)
Toàn cảnh chùa nhìn ra biển - Ảnh phodong (2013)
Toàn cảnh chùa trong mây núi - Ảnh Hoàng Tuấn (2013)
Hang tổ với tượng nhà sư Lê Ban - Ảnh phodong (2013)
Chùa ông Núi đến nay đã 320 năm, qua 12 đời thừa kế. Trải qua bao thăng trầm, đến khoảng năm 1965 chùa bị bom đạn chiến tranh xoá sạch. Đến năm 1994, Giáo hội Phật giáo tỉnh Bình Định cử hòa thượng Huệ Quang làm trụ trì chùa Linh Phong và công việc tái thiết chùa diễn ra liên tục đến năm 2004 mới hoàn thành. “Khi chúng tôi đến chùa Linh Phong lần đầu tiên chỉ thấy toàn cỏ dại, những đồ vật của chùa ngày xưa không cháy cũng bị kẻ gian lấy cắp. Phật tử phải phát dọn rất nhiều thời gian mới có được con đường lên chùa, nền chùa và dấu vết 18 mộ tháp của các trụ trì đời trước mới lộ ra”, hòa thượng Huệ Quang cho biết. Ngày nay, chùa Linh Phong sừng sững mái son nổi bật trên nền cỏ cây xanh biếc với tượng Phật Bà ngự giữa tòa sen trước sân chùa. Mái cổ lầu, lợp ngói ống. Trên nóc gắn hình lưỡng long tranh châu, nạm sứ. Đôi cột trước điện hình song long cuộn trông khá khang trang.
Chính điện - Ảnh phodong (2013)
Bên trong chính điện - Ảnh Hoa Khá (2013)
Nhà Tây và Chính điện chùa - Ảnh phodong (2013)
Thầy Thích Đổng Quán cho biết, tượng Phật cao 2,5m, đại hồng chung nặng 1,2 tấn, đều mới đúc tại chỗ (thuê nghệ nhân Huế vào) và nhập điện vào dịp lễ 25 tháng giêng (ÂL)- ngày giỗ ông Tổ Viên Minh của chùa. Còn đại hồng chung cũ của chùa (hiện đang lưu giữ tại Bảo tàng huyện Phù Cát) có khắc tên một danh tướng của chúa Nguyễn là Tống Phước Hiệp (và tên con trai, con gái), cùng phụ tá của ông là Nguyễn Khoa Thuyên (và tên vợ con). Theo Đại Nam liệt truyện tiền biên, năm 1774, quân Tây Sơn đánh Bình Thuận, Tống Phước Hiệp cùng Nguyễn Khoa Thuyên nhận được lệnh phát hịch gọi binh đi đánh Tây Sơn. Trong chiến dịch này, Tống Phước Hiệp bắt gặp đại hồng chung chùa Thiên Phước (ở Vĩnh Long ngày nay) nên cùng với Nguyễn Khoa Thuyên cho thợ khắc chữ lên chuông rồi tiến cúng cho một vị sư. Đến nay vẫn chưa rõ Tống Phước Hiệp tiến cúng đại hồng chung cho vị sư nào và tại sao đại hồng chung này lại có tại chùa Linh Phong.
Một góc chùa - Ảnh Hoàng Tuấn (2013)
Lộc chùa - Ảnh Hoàng Tuấn (2013)
Chùa Linh Phong đã được Nhà nước công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa. Ngày rằm, mồng một, sư sãi và đệ tử khắp nơi về chùa dâng hương lễ Phật. Tết và những ngày lễ lớn, ngày nghỉ, nhân dân nô nức chen chân về chùa Linh Phong vãn cảnh, tham quan. Chùa Linh Phong ngày nay trở thành một địa chỉ du lịch khá hấp dẫn của Bình Định.
Tổng hợp từ Internet.
Chuyện bên lề: Mai Tăng Đào Tấn và Linh Phong Tự - Lộc Xuyên
Cụ Ðào Tấn, tự Chỉ Thúc, hiệu Mộc Mai và Tô Giang, sinh ngày 27 tháng 2 năm Ất Tị (6-4-1845) tại làng Vinh Thạnh phủ Tuy Phước (nay là thôn Vinh Thạnh xã Phước Lộc huyện Tuy Phước). Trúng Cử nhân khoa Ðinh Mão, Tự Ðức thứ 20 (1867). Quan chức đến Hàm Hiệp Biện Ðại Học sĩ, phẩm Tùng nhất, tước Vinh quang tử, kiêm lãnh Thượng thư bộ Công. Về hưu năm Giáp Thìn, Thành Thái 16 (1904). Tạ thế tại Vinh Thạnh ngày rằm tháng bảy năm Ðinh Mùi Thành Thái 19 (23-8-1907), thọ 63 tuổi ta.
Trở lên là đôi nét sơ lược thân thế ông quan lớn họ Ðào. Và, nếu chỉ có thế thì vị tất cụ Ðào Tấn ở Vinh Thanh đã lưu danh thiên cổ. Sở dĩ cụ được các nhà nghiên cứu Văn Học Nghệ Thuật lâu nay xưng tụng là tác giả lỗi lạc của dòng văn học trình diễn, là nhà văn hóa lớn của dân tộc có tầm cỡ quốc tế chính nhờ ở sự nghiệp soạn tuồng hát Bội, dạy hát Bội, hoạt động nhằm phát triển hát bội đến mức cực thịnh. Tư tưởng chủ đạo hướng dẫn ngôn hành của cụ, thể hiện rõ nét qua tác phẩm cụ (gồm văn thơ từ tuồng), là triết lý hữu vi của Nho giáo và biện chứng giải thoát của Phật giáo. Ở đây tôi chưa bàn đến dấu ấn của hai nguồn tư tưởng trên trong tác phẩm cụ mà chỉ nói đến cái hiện tượng biểu thị sự liên hệ mật thiết giữa ông quan lớn mà cũng là nhà văn hóa lớn Ðào Tấn với Thiền môn. Tức là nói đến ý nghĩa từ Tiểu Linh Phong Mai tăng và các nguyên ủy khiến cụ chọn nhóm từ này làm đạo hiệu vừa bút hiệu cho chính mình.
Như trên đã nói cụ Ðào Tấn ngoài hai tên hiệu Mộng Mai và Tô Giang, còn một biệt hiệu nữa là Tiểu Linh Phong Mai Tăng, gọi tắt là Mai Tăng. Biệt hiệu này cụ thường dùng để tự xưng trong những bài thơ nói về mình và dùng ký dưới những trước tác của mình mà ngày nay ta còn thấy được tự tích trên tấm hoành.
"Hương Thảo Thất
Mai Tăng
Thành Thái Ất Vị Xuân"
Tự tích dưới bài thơ Mai Tăng tức chiếu đề dấu chân dung chụp tại bộ Công năm 1903 và ký dưới bài Linh Phong tự ký. Theo ngữ nghĩa thì Linh Phong Mai Tăng có nghĩa là Sư Mai ở núi Linh, còn từ Tiểu đứng trước bốn từ kia hàm ý khiêm tốn, cả năm từ có nghĩa "Mai tăng, nhà Sư tầm thường ở núi Linh".
Núi Linh - Linh phong - là tên ngọn núi nằm phía đông dãy Bô Chinh đại sơn. Sơn hệ này, tục gọi hòn Bà, nằm giữa huyện Phù Cát, chạy dài từ quốc lộ 1 phía tây đến giáp biển phía đông, gần 20 km đường chim bay. Lưng chừng ngọn Linh phong có ngôi chùa cổ từng được chúa Nguyễn Phúc Chú (Ninh vương) ban biểu sắc tứ vào năm Qúy Sửu 1732. Người khai sơn ngôi Linh Phong Tự là sư Lê Ban, tục gọi Ông Núi (Sơn Ông), từng được chúa Ninh ban hiệu là Tịnh Giác Thiện Trì Ðại Lão Thiền Sư cùng một lúc ban biển sắc tứ cho chùa; chúa Nguyễn Phúc Khoát (Võ vương) mời ông về triều ban cho pháp phục vào năm Tân Dậu (1740). Vua Minh Mệnh ban thêm pháp phục để thờ ông và ban bạc tu bổ chùa vào năm Bính Tuất (1826). "Sư Mai ở núi Linh" nhất định có liên hệ với ngôi cổ tự này.
Xét "Tiểu sử cụ Ðào Tấn 1845-1907" do con trai thứ của cụ là Ðào Nhữ Tuyên soạn đề ngày 17 tháng 8 năm Bảo Ðại thứ 18 (1943) thì: "...sau khi đức Dục Tôn Anh Hoàng đế (tức vua Tự Ðức) thăng hà rồi, quyền thần lộng bính, cụ bỏ quan về phụng dưỡng song đường. Triều đình nghị giáng tứ cấp, năm Kiến Phước nguyên niên (1883) định đưa cụ cố ông và hộ cụ cố bà lên chùa Linh Phong (Phù Cát - Bình Ðịnh) lánh loạn nương thân, năm Ðồng Khánh nguyên niên (1886) quan tỉnh Bình Ðịnh cử cụ Thượng tá Tỉnh vụ Bình Ðịnh, chưa mấy ngày vâng đức Cảnh Ðôn Thuần Hoàng đế (tức là vua Ðồng Khánh) chuẩn triệu lai kinh Tham tá Các vụ..." (1) và bài Linh Phong tự ký có đoạn viết: “Kiến Phúc Hàm Nghi niên giám, Tấn khí quan nam qui, thác ư thiền dĩ tị loạn, lam dư trúc trượng, tằng ư thử sơn thể tự lưu biên. Cổ nhân hữu nhất tuế sơn cư quá bán, Tấn ư thử thời tự chi hĩ!” Dịch: “Giữa niên hiệu Kiến Phước - Hàm Nghi, Tấn tôi bỏ quan về (nhà ở phía) nam (Kinh đô), gởi thân nơi cửa Phật để tránh loạn, kiệu chàm gậy trúc thường đi lại giữa núi này (Linh Phong) và chùa này (Linh Phong tự). Người xưa mỗi năm ở núi quá nửa (thời gian), Tấn tôi lúc bấy giờ cũng tương tự như vậy!” (2)
Qua hai tư liệu trên ta biết được mấy sự kiện: Sau khi Tự Ðức chết (19-4-1883) cụ Ðào Tấn đang thọ hàm Hồng lô Tự khanh phẩm chánh tứ (4-1) vẫn làm Phủ Doãn Thừa Thiên phẩm chánh tam (3-1) thì bỏ quan về nhà ở Vĩnh Thạnh bị điều nghị phạt giáng bốn cấp. Gặp tang cha rồi gặp Văn thân khởi dấy nên cùng với mẹ lên nương náu tại chùa Linh Phong - Phù Cát hơn nửa năm giữa 1885-1886. Ðồng Khánh lên ngôi ngày 14-8-1885 hạ chỉ mời cụ về Kinh giữa năm sau, Ðồng Khánh nguyên niên 1886, cụ về tới triều được cử giữ chức Tham Biện (4) tại Nội các. Vậy là cụ đã có hơn nửa năm hoặc gần một năm ở tại chùa Ông Núi trên Linh Phong để tránh loạn.
Liên hệ đến sự cố Văn thân khởi nghĩa tại Bình Ðịnh, nhiều tư liệu đều đã cho biết sau khi Nguyên soái Mai Xuân Thưởng phụng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi thì có cử người đến mời cụ nhập đảng. Cụ lấy cớ đang thọ tang cha và còn mẹ già phải phụng dưỡng nên từ chối. Sợ ở lại nhà không yên, cụ phải lánh lên chùa Ông Núi, nên cho người bí mật đưa mẹ lên chùa ở với cụ. Ðể tránh sự rắc rối xảy ra từ phía Văn thân, cụ đã "đầu Phật". Có điều cụ "đầu Phật" mà tôi ngờ rằng cụ chẳng "đầu Sư", tức là tự mình đầu Phật, tự mình làm tăng. Tôi vừa nói cụ Ðào Tấn "tự mình đầu Phật, tự mình làm tăng" không phải chẳng có cơ sở. Thông thường một người thế tục muốn làm tăng phải trải qua các chặng đường quy y, thọ giới, cầu pháp. Dẫu cho cụ lúc bấy giờ đã 40 tuổi, đã có vợ có con nhưng nhờ có căn bản Hán học mà đã thâm nhập Phật học, được bổn sư cho miễn thọ giới Sa di thì cũng phải thọ đại giới Tỳ kheo mới làm tăng được. Khi quy y thì được bổn sư đặt cho pháp danh (tên đạo). Khi thọ giới - cầu pháp thì được vị thầy thế độ đặt cho đạo tự (tên tự trong đạo) và đạo hiệu (tên hiệu trong đạo). Pháp danh của đệ tử thường chỉ có hai chữ mà chữ khởi đầu tiếp theo chữ khởi đầu của bổn sư, cả hai đều nằm trong một bài kệ của một dòng Thiền đã có sự truyền thừa ở nước ta. Ðạo tự, đạo hiệu do vị sư thế độ đặt thường được khởi đầu bởi một chữ chung cho đệ tử vị ấy, tự hay hiệu thường cũng chỉ có hai chữ, cả hai đều nói lên cái ước vọng thăng tiến về trí tuệ và về đạo hạnh mà thầy muốn gởi gấm nơi học trò mình. Xét năm chữ "Tiểu Linh Phong Mai Tăng" thì không phải đạo hiệu, đạo tự, lại càng không phải pháp danh. Tôi đã đọc kỹ bài "Tiểu sử cụ Ðào Tấn" đã dẫn trên kia, cùng thần chử, thần vị của cụ hiện thờ tại nhà thờ cụ ở Vĩnh Thạnh thì ngoài tên hiệu Mai Tăng không hề thấy có pháp danh. Tôi cũng nghĩ nếu cụ đã quy y từ nhỏ, thì lúc lánh mình ở chùa Ông Núi, muốn thọ giới cụ tức thì thầy thế độ không ai khác hơn vị sư trụ trì tại chùa. Có thế mới giữ kín được hành tung của cụ. Tôi cũng muốn biết hành trạng của vị sư này, để thông qua đó đoán định thử có phải vị thầy thế độ cho cụ chăng, bởi lẽ một trí thức khoa bảng, am hiểu Thiền lý, đã từng làm đến ấn quan hàm chánh tứ như cụ không thể không chọn minh sư để cầu pháp. Ðiều mong muốn ấy của tôi hiện nay và có lẽ mãi sau này cũng khó thỏa mãn bởi chùa Ông Núi đã bị thiêu hủy trong chiến tranh vừa qua, đến long vị của lịch đại trụ trì từ tổ khai sơn Lê Ban đến vị Hoà thượng sau cùng thị tịch trong chín năm kháng Pháp cũng không còn thì nói chi đến tự phổ, ngữ lục v.v... nếu có.
Không tìm được từ phía chùa Ông Núi thì thử tìm trong tác phẩm cụ xem sao. Tôi đọc lại những gì cụ đã viết mà tôi hiện có thì chỉ thấy ở bài Linh Phong tự ký có nhắc đến "tự tăng" và ở bài thơ Phỏng Linh Phong tự, qui chu phong vũ đại tác trong tập Tiên nghiêm Mộng Mai ngâm thảo do hai bà con gái của cụ ký lục thấy có câu "Khước lạ Thiền phòng tiếu bất lưu", ngoài ra chưa thấy ở đâu nữa.
Ở bài Linh Phong tự ký, chữ tự tăng được lặp lại hai lần trong một đoạn sau đây:
“Sơn cư vô sự, nãi sưu cầu Sơn Ông di tích, vô bi ký khả trưng, chỉ tầm đắc tàn chi tệ biên, hữu biên niên kỷ nguyện giả... Hựu đắc Sơn Ông thử thuyên Pháp Hoa kinh giải nhất tạng, nhị bách du bản, dữ ngọc thạch đề chương... phàm thất, khỏa, triệu cực cổ. Tấn toại phất thức, tàng ư tiểu khiếp, tịnh dữ Pháp Hoa kinh tạng, phú tự tăng trân thủ chi. Diệc hữu Sơn Ông đề vịnh, mặc tích tam sổ chi, tự tăng bất tri, dĩ thủ nhi hồ họa tượng hĩ! Tấn bối triễn họa tương quan chi, đa phân tích bất hiểu, thậm khả tích dã!”
Dịch: “Ở trong núi không việc gì làm, (Tấn tôi) bèn tìm tòi di tích của Ông Núi, không văn bia làm chứng, chỉ tìm được giấy rách sách nát có chép năm ghi tháng... Lại được hơn hai trăm tấm ván khắc trọn bộ "Pháp Hoa kinh giải", những mộc bản này do chính tay Ông Núi sắp xếp, cùng khuôn dấu bằng đá quí... được bảy cái khắc kiểu chữ triện rất xưa. Tấn tôi bèn phủi lau sạch bụi, đặt vào tráp nhỏ, cùng với mộc bản bộ kinh Pháp Hoa, giao cho tự tăng cất giữ cẩn thận như cất giữ vật quí. Cũng có đôi ba tờ giấy có dấu chữ Sơn Ông đề vịnh nhưng tự tăng chẳng biết, đã đem bồi bức vẽ tượng!... Tấn tôi lật bề lưng bức tượng mà xem thì phần lớn chữ hiện rõ nhưng chẳng hiểu được, rất đáng tiếc!” (2)
Tự tăng tức "sư ở chùa", trỏ vị sư trụ trì chùa Linh Phong lúc ấy chứ chẳng ai khác. Ở bài thơ "Phỏng Linh Phong tự..." câu "Khước tạ Thiền phòng tiếu bất lưu" nếu dịch theo nghĩa đen thì "Từ giã phòng sư ở, cười mà chẳng giữ lại" Người từ tạ ra về là cụ Ðào Tấn, người cười mà chẳng cầm cụ ở lại là sư trụ trì chùa Linh Phong lúc ấy chứ chẳng ai khác. Ở cứ liệu trước, tự tăng đã không biết bảo quản tốt di tích của Ông Núi khiến cụ phải than phiền. Ở cứ liệu sau "Nhà sư trong thiền phòng" không biết cầm cụ lại để cụ rời khỏi chùa thì gặp mưa gió lớn. Tự tăng trước và nhà sư sau có thể là một người cũng có thể là hai người khác nhau bởi vì khi cụ lánh mình ở chùa (giữa 1885-1886) đến lúc cụ trở lại thăm chùa mà làm bài thơ này (sau khi về hưu - 1904) cách nhau gần hai mươi năm và tự tăng trước và nhà sư sau, qua lời kể của cụ mà tôi vừa nói, thì không thể là đạo sư của cụ được. Hơn nữa, tuy cụ thường tự xưng "Sư Mai ở Linh Phong", nhưng từ lúc ở chùa, rồi trở lại làm quan cho đến khi hưu khi chết cụ không hề xuống tóc, không mặc nâu sồng, không ăn chay trường, mà vẫn giữ phong thái, và nếp sống của nhà Nho. Càng nghiên cứu những sự kiện trên tôi càng nghiêng về giả thuyết cụ chỉ "đầu Phật" chứ không "đầu Sư", tự mình làm tăng, tự mình đặt hiệu Tiểu Linh Phong Mai Tăng. Thông qua tên hiệu này, rõ ràng cụ muốn tỏ cho đời biết cụ từng có lúc ẩn tại Linh Phong. Còn mai là tên một loài cây có hoa có phẩm chất cao quí mà cụ từng ưu ái. Phẩm chất ấy tương tự như đức tính của bậc quân tử mà cụ từng tu dưỡng. Chọn mai làm tên hiệu vừa bày tỏ gốc gác ở làng Nho vừa nói lên ý hướng thăng tiến tu học. Ðọc bài thơ trích sau đây ta sẽ thấy cụ trân trọng biết bao ngọn núi ngôi chùa mà cụ mang tên.
Ðối với núi và chùa Linh Phong - nơi đã cưu mang cụ trong những ngày ẩn tu - bằng thơ văn, cụ đã nhiều dịp bày tỏ lòng biết ơn và tình lưu luyến. Trong số thơ văn, nói đến chùa Linh Phong đáng chú ý có bài Linh Phong tự ký, Mai Tăng tiểu chiếu và Phỏng Linh Phong tự, qui chu phong vũ đại tác. Năm Quí Mão, Thành Thái thứ 15 (1903), cụ đang làm Thượng thư bộ Công tại triều, nhân lúc rảnh cụ soạn bài Linh Phong tự ký. Ðây là một bài văn xuôi, bằng chữ Hán, dài khoảng 1400 chữ, tác giả đã miêu tả núi và chùa Linh Phong kể lại tường tận sự tích cùng di tích Ông Núi, sự tích cùng sự trạng chùa từ lúc khai sơn đến ngày tác giả ẩn tu tại đây. Tác giả có trưng dẫn hoành phi và liễn đối của chúa Nguyễn sắc tứ và ngự đề, cùng điểm xuyết mấy câu đối chính mình đề vịnh. Cuối bài tác giả viết: “Bộ thư chi hạ, lược thuật kỳ ngạnh khái; mệnh như Thụy Thạch Nhữ Tuyên bốc ký chi, vị Linh Phong thiền tự nhất tiểu thừa, dĩ miễn nhân một, phi vãn dã”. Dịch: “Nhân rỗi việc sổ sách tại bộ, lược thuật những nét chính, sai các con là Thụy Thạch, Nhữ Tuyên ghi lấy, vì chùa Linh Phong là phương tiện nhỏ đưa người đến giác ngộ (nên phải viết) để sự tích chùa khỏi bị vùi lấp chứ chẳng phải làm văn vậy” (2).
Tuy tác giả nói không dụng ý "làm văn", nhưng giá trị nội dung và hình thức bài ký này từng được người đương thời đánh giá cao, được xem như mẫu mực của thể ký, được phổ biến cả nước dưới hình thức sao chép. Chính bản chữ Hán mà tôi đang dùng để viết bài này là bản chép tay của cụ Hà Trì Trần Ðình Tân (đỗ Cử nhân khoa Ất Mão 1915). Bản cụ Hà Trì cũng được sao lại từ bản chép tay của cụ Biểu Xuyên Ðào Phan Duân (đỗ Phó bảng học khoa Ất Vị 1895). Có người, như nhà cách mạng Hoàng giáp Nguyễn Thượng Hiền đọc bài ký này rồi khởi hứng viết nên bài "Mộc y ông thuyết" vừa nhắc chuyện xưa vừa tán dương tác giả Linh Phong tự ký.
Cũng trong năm 1903, mùa hè, cụ có đề một bài thơ dưới bức ảnh bán thân của cụ. Bài thơ như sau:
"MAI TĂNG TIỂU CHIẾU
Vi tiếu hậu Thiền kỳ
Phong trần không mãn y
Linh Phong tam thập liễu
Vi kiện thử tăng qui (3)
Thành Thái thập ngũ niên ngũ thập cửu tuế
Mai Tăng tự đề ư Hoàng cung chi Ðông thự."
Dịch nghĩa:
Bức ảnh nhỏ của Mai Tăng
Miệng mỉm cười như để lộ vẻ huyền diệu trong đạo Thiền
Và gió bụi đã bám đầy áo
Chùa Linh Phong đã ba chục năm nay
Chưa thấy sãi này trở về!
Mai Tăng tự đề tại bộ Công trong Hoàng cung vào tháng cuối mùa hè năm Thành Thái thứ 15 (1903), lúc 59 tuổi.
Tạm dịch thơ:
"MAI TĂNG ÐỀ ẢNH
Miệng cười như lộ mây Thiền
Mà trên áo bám triền miên bụi đời
Linh Phong ba chục năm trời
Sãi này còn mãi rong chơi chưa về."
Bài thơ có phong thái Thiền. Có điều lạ là ở câu 3 cụ bảo cụ xa chùa Linh Phong đã ba mươi năm. Nếu nhẩm tính từ lúc cụ ẩn tu tại chùa khoảng giữa năm 1885 đến khi cụ làm bài thơ này mùa hè năm 1903 thì chưa đầy 18 năm. Hay thậm xưng cũng là một ngôn ngữ Thiền được sử dụng để bày tỏ tính phá chấp?
Sau khi về hưu, năm Giáp Thìn Thành Thái 16 (1904), có lần cụ trở lại thăm chùa Linh Phong. Cụ đi bằng ghe, từ nhà cụ theo đường nước, dẫn xuống xã Phước Thuận, vào đầm Thị Nại, rồi men theo bờ ngự hàm các xã phía đông hai huyện Tuy Phước - Phù Cát mà ngược lên bắc thì tới gần Kẻ Thử (xã Cát Chánh). Từ đó rời ghe đi bộ lên chùa chẳng bao xa. Lượt về cụ cũng đi bằng ghe, rời khỏi chùa thì gặp mưa to gió lớn. Cụ kể lại chuyến đi này trong bài thơ sau đây:
"PHỎNG LINH PHONG TỰ QUI CHU PHONG VŨ ÐẠI TÁC
Mai Tăng kim nhật hựu lai dư
Khước tạ Thiền phòng tiếu bất lưu
Khả ái Sơn Ông vô sở hữu
Chỉ tương phong vũ tống qui chu" (3)
Dịch nghĩa:
Thăm chùa Linh Phong, thuyền về gặp mưa to gió lớn
Ngày nay Mai Tăng lại đến thăm chơi,
Từ giã phòng sư, (sư) cười mà chẳng cầm ở lại,
Ðáng yêu thay trong Núi không có vật gì (tăng),
Chỉ đem gió mưa mà tiễn thuyền (ta) trở về.
Tạm dịch thơ:
Mai Tăng nay lại đến chùa chơi
Từ giã, chẳng lưu sư chỉ cười
Ông Núi đáng yêu không của cải
Chỉ đem mưa gió tiễn thuyền thôi.
Ðọc lại câu cuối "Phong vũ tống qui chu, gió mưa tiễn thuyền về" mà cũng có nghĩa "gió mưa đẩy thuyền đi về hướng nam" thì gió nầy nhất định là gió bấc. Gió bấc lại thường thổi về mùa đông. Mùa đông mưa nhiều thì nước đầm càng sâu, gió bấc thổi mạnh thì sóng trên đầm càng to. Nếu phong vũ đại tác xảy ra trên đầm Thị Nại vào mùa đông thì có nguy cơ làm đắm thuyền cụ, đe dọa đến tính mạng cụ và những người đồng thuyền. Nếu xảy ra vào những mùa khác thì nguy cơ ít hơn nhưng cũng khiến cho người trong thuyền phải trải qua một phen vất vả và lo sợ. Ấy thế mà cụ đã bình thản nhẩn nha kể lại sự biến vừa qua, hơn thế nữa còn xem mưa to gió lớn như một phương tiện tốt mà Ông Núi đã để cụ rèn luyện tinh thần và nghị lực. Nếu không có được một công phu hàm dưỡng cả Tâm học của Nho giáo lẫn Thiền học của Phật giáo thì dễ gì có được một nhân sinh quan lành mạnh đến thế?
Trở lại với nhóm từ "Tiểu Linh Phong Mai Tăng". Nếu viết được như thế thì thì tăng là danh từ chung, có nghĩa là nhà sư, thì từ tăng không viết hoa. Nếu viết tắt "Mai tăng" thì tùy theo nơi mà không viết hoa như ở bài thơ Tặng Mai tăng do chính Nam quốc Mai tăng (có pháp phục, có mão tì lư hẳn hoi) làm tặng mình thì từ tăng không viết hoa. Nhưng ở những nơi khác như dưới bức hoành "Hương Thảo Thất" chẳng hạn, thì từ Tăng viết hoa bởi Mai Tăng đã trở thành tên hiệu của cụ Ðào Tấn, thuộc loại chữ danh từ riêng. Bạn đọc chớ cho tôi nhiễu sự. Khổ quá, cũng bởi chữ Hán không có lối viết hoa, bởi Mai Tăng từng có lúc tự làm tăng, bởi Mai Tăng thường tự xưng mình là Mai tăng (với chữ tăng viết thường)... nên tôi phải dài dòng. Lại nữa, sau khi "hạ sơn" để trở lại "hoạn lộ", thỉnh thoảng Mai Tăng vẫn xưng là Mai tăng. Hay Mai Tăng cho rằng mình trở lại làm quan cũng không khác hành động "thỏng tay vào chợ" (thùy thủ nhập triền) của Thiền giả đạt đạo? Vả lại Bồ tát hạnh không phải chỉ để dành riêng cho tu sĩ xuất gia tu tập và quả vị Bồ tát không chỉ có tăng sĩ mới đạt được mà cư sĩ tại gia cũng được phép tu hạnh này và cũng đã có người đạt quả vị này. Lịch sử Phật giáo từng chép Duy Ma Cật ở Ấn Ðộ thời Phật tại thế, Bàng Uẩn ở Trung Hoa và Trần Quốc Toản đời Trần ở nước ta đều là những cư sĩ tại gia, đều chứng quả vị trong thập địa Bồ tát. Cho nên cũng không phải nhọc sức tìm xem Mai Tăng có tên trong Tăng tịch không? Có được Tòng lâm tỉnh ta xưa nay thừa nhận là tăng không? Và cũng không cần phải chính danh cho Mai Tăng mà chỉ nên xem thử Mai Tăng đã làm được những gì. Việc mà Mai Tăng đã làm thì nhất định có nhiều nhưng làm mà không mong cho người biết cũng là một hạnh trong Bồ tát hạnh, cho nên ngày nay ta chỉ biết được một ít nhờ thư tịch có ghi chép mà thôi. Ðó là: “Thành Thái Ất Vị niên, Tấn kị Ðông thự, dĩ sự tấu đạt Tây cung, dụ thỉnh ân chỉ. Phụng bang xuất nội thảng ngân thát thập hạnh, mệnh tỉnh thần hiềm khuyến đồng nhân hội kim, đắc nhược can, đổng suất trùng tu yên, Ðinh Dậu cửu niên bát nguyệt lạc thành. Tấn vị năng qui phỏng, nhi tùng cố hương lai giả, giai vị Linh Phong quang cảnh, hoán nhiên nhất tâm, khả hỉ khả ủy” (Linh Phong tự ký). Dịch: “Năm Ất Vị niên hiệu Thành Thái (1895), Tấn tôi thự Thượng thư bộ Công, đem chuyện chùa Linh Phong tâu lên Tây cung để cầu xin ấn chỉ (Tây cung) lệnh xuất kho trong cung 70 lạng bạc, sai đỉnh thần quyên thêm người trong tỉnh được bao nhiêu thì gộp chung với số bạc đã ban mà đốc suất việc trùng tu chùa. Tháng tám năm Ðinh Dậu, nhằm năm thứ 9 niên hiệu Thành Thái (1897) thì lạc thành. Tấn tôi chưa thể về thăm nhưng theo lời người làng ta ai cũng nói: "Quang cảnh chùa Linh Phong nay trở nên sáng sủa và mới mẻ!" Ðáng mừng! Ðáng yên tâm!” (Trích Linh Phong tự ký) (2)
Qua cứ liệu trên, ta thấy rằng từ lúc vận động trùng tu chùa Linh Phong đến khi lạc thành chỉ trong vòng hai năm (1895-1897). Công trình thực hiện nhanh chóng là nhờ có sự tán trợ của bà Thái hậu (Tây cung) và sự chỉ đạo trực tiếp của bộ sở quan, bộ Công, mà người đứng đầu là Thượng thư Ðào Tấn. Lần trùng tu này có qui mô lớn hơn các lần trước, đẹp đẽ và vững chãi hơn các lần trước, nếu không bị ngọn lửa chiến tranh thiêu hủy vào năm 1965 thì chắc chắn nó vẫn còn đứng vững tới hôm nay. Có thể nói mà không sợ lầm rằng nếu không có sự vận động của cụ Ðào Tấn thì vị tất đã có lần trùng tu Linh Phong tự nói trên.
Và, việc thứ hai là bằng văn thơ cụ đã ghi lại sự tích chùa Ông Núi cùng bày tỏ sở kiến về Thiền đạo, những văn thơ ấy đã làm phong phú thêm dòng văn học Thiền trong lịch sử văn học nước nhà.
Với bấy nhiêu ấy, nhà Nho, nhà văn, nhà nghệ sĩ, ông quan lớn Ðào Tấn không phải thẹn khi mang thêm tên hiệu Mai Tăng hoặc tự xưng là Tiểu Linh Phong Mai Tăng vậy.
Lộc Xuyên Đặng Quí Địch
Ðặc san LIÊN TRƯỜNG TRUNG HỌC QUI NHƠN Xuân Canh Thìn 2000
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------1.- Xem "Thư mục và tư liệu về Ðào Tấn", Vũ Ngọc Liễn chủ biên, UBKHKTNB, Sở VHTTNB và Nhà Hát tuồng Nghĩa Bình xuất bản, Qui Nhơn - 1985, tr.7 - tr.9
2.- Xem "Mai Viên cổ sự" của Lộc Xuyên Ðặng Quí Ðịch. Văn Lang xuất bản 1994, bài Linh Phong tự ký với đầy đủ nguyên văn, phiên âm, dịch nghĩa, tr.51 - tr.65
3.- Trong "Tiên Nghiêm Mộng Mai ngâm thảo" do hai bà con gái của cụ Ðào Tấn là Trúc Tiên và Chi Tiên ký lục, Tịnh Ba phụng sao năm 1964, bản photocopy lưu trữ tại tủ sách của Lộc Xuyên Ðặng Quí Ðịch
4.- Từ biện trong các từ ghép Hiệp biện, Tham biện, Thương biện... còn được thay bằng từ tá nên còn gọi Hiệp tá, Tham tá, Thương tá.
Nhận xét
Đăng nhận xét