Thành Thị Nại
Vùng đất Bình Định xưa là đế đô của Vương quốc Chămpa (1000-1471). Trong thời gian trên dưới năm thế kỷ, biết bao thăng trầm của lịch sử đã diễn ra trên vùng đất này. Trên đất Bình Định nay còn để lại không ít dấu tích của một thời vàng son. Trong số đó, phải kể đến dấu tích của kinh thành Vijaya (thuộc xã Nhơn Hậu và thị trấn Đập Đá, An Nhơn), thành Cha (thuộc xã Nhơn Lộc, An Nhơn) và thành Thị Nại.
Thị Nại là tòa thành nằm trên địa bàn thuộc các thôn: Bình Lâm, Bình Nga Đông, Bình Nga Tây và Bình Trung, xã Phước Hòa, huyện Tuy Phước. Đây là tòa thành gắn với nhiều sự kiện quan trọng trong lịch sử Chămpa nên được nhắc đến khá nhiều trong thư tịch cổ. Và cũng chính vì vậy mà sau này khi nghiên cứu lịch sử Chămpa, nhiều học giả đã cố công đi tìm di tích tòa thành này trên mặt đất.
Cho đến đầu thế kỷ này, dường như mọi sự tìm kiếm vẫn chưa đem lại kết quả. Vào năm 1933, khi công bố tác phẩm Nhập môn nghiên cứu An Nam và Champa (Introduction à 1' étude de 1' Annam et du Champa), nhà khảo cổ học Pháp J.Y Claeys, một chuyên gia Champa học nổi tiếng, đã từng cho rằng: "đáng tiếc là tòa thành này đã bị phá hủy hoàn toàn". Hi vọng tìm thấy di tích thành Thị Nại dường như đã trở thành vô vọng..
Nhưng thật may mắn, trong mấy năm gần đây, do công việc đào đắp xây dựng của nhân dân, tại địa phận thôn Bình Lâm, xã Phước Hòa, huyện Tuy Phước đã xuất lộ nhiều đoạn tường của một tòa thành cổ. Các nhà khoa học đã có dịp đến trực tiếp nghiên cứu và đều thống nhất nhận định rằng đây là dấu vết còn lại của thành Thị Nại đã được sử sách nhắc đến.
Trong các tài liệu lịch sử, tòa thành này được chép dưới nhiều tên gọi khác nhau. Sách Kinh tế đại điển tự lục và Nguyên sử của Trung Quốc khi nói đến Chiêm Thành cảng, có đoạn viết: "Cửa cảng phía Bắc liền với biển, bên cạnh có 5 cảng nhỏ, thông với Đại Châu của nước ấy, phía Đông Nam có núi ngăn, phía Tây có thành Gỗ". Cửa cảng như mô tả trong sách có thể là cửa Cách Thử, hay Nha Phiên hải tấn, một hải cảng quan trọng của đất Đại Châu, mới bị lấp vào khoảng thế kỷ XIX. Núi ngăn phía Đông Nam chắc hẳn là dãy Triều Châu còn thành Gỗ chính là thành Thị Nại.
Vào thế kỷ XIII tòa thành này đã từng là nơi diễn ra những trận đấu ác liệt của quân Chămpa chống lại cuộc xâm lược trên quy mô lớn của quân Nguyên – Mông. Nằm trong chiến lược thôn tính các nước "ngoài biển" và kế hoạch hai gọng kìm tấn công Đại Việt, cuối năm 1282 vua nhà Nguyên Hốt Tất Liệt (Qubilai) đã phái một đạo thủy binh do Toa Đô (Sogetu) chỉ huy tiến đánh Champa. Ngày 30 tháng 12 năm 1282 quân Nguyên đến Chiêm Thành cảng. Quân Champa dưới sự chỉ huy trực tiếp của vua Indravarman đã tỏ ra quyết tâm kháng chiến. Thành Thị Nại trở thành cứ điểm tiền tiêu.
Sau nhiều ngày dụ dỗ và đe dọa nhưng không khuất phục nổi vua Champa, ngày 13 tháng 2 năm 1283 Toa Đô hạ lệnh tấn công thành Gỗ. Mặc dù đã chiến đấu vô cùng anh dũng nhưng vì thế giặc mạnh, quân Chămpa đã buộc phải rút lui. Thành Thị Nại lọt vào tay quân giặc. Tuy nhiên, quân Nguyên sau đó đã phải đối phó với một cuộc kháng chiến kiên cường, bền bỉ của quân và dân Chămpa.
Sau hơn một năm trời liên tục phải giao chiến mà không giành được thắng lợi, đầu tháng 3 năm 1284 Toa Đô đã phải tạm gác ý đồ chinh phục Champa, rút quân lên phía Bắc, vùng gần biên giới phía Nam của Đại Việt. Lực lượng này đã tham gia cuộc tiến công vào Đại Việt năm 1285 và chịu chung số phận thất bại với các cánh quân Nguyên khác. Tướng Toa Đô đã bị chém đầu trong trận Tây Kết.
Nhiều tài liệu lịch sử cho thấy cuộc kháng chiến chống quân Nguyên của nhân dân Champa đã nhận được sự giúp đỡ của quân Đại Việt và đặc biệt chiến thắng oanh liệt của nhân dân Việt trong cuộc kháng chiến chống Nguyên –Mông lần thứ hai diễn ra vào năm 1285 chẳng những đã bảo vệ vẹn toàn non sông Đại Việt mà còn chặn đứng được cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mông cổ xuống Champa và góp phần vào việc giải phóng hoàn toàn đất nước này.
Di tích còn lại cho thấy thành được xây dựng trên một doi đất cao nằm kẹp giữa hai phân lưu phía hạ nguồn của sông Kôn là sông Cầu Đun và Sông Gò Tháp. Thành có cấu trúc hình chữ nhật, chiều dài chạy theo hướng Đông-Tây đo được 1.300m, chiều rộng hơn 600m. Dấu tích thành còn rõ nhất ở mặt Bắc. tại đây tường thành chạy dọc theo sông Gò Tháp, dựa vào sông làm hào chắn tự nhiên. Vết tích còn lại là một dải gạch đổ dài trên 200m, trên đó còn một đoạn tường khá nguyên vẹn. Tuy đoạn tường còn sót lại chỉ dài gần 4m, cao 1,2m nhưng cũng đủ để hình dung về cấu trúc và kỹ thuật xây thành. Phần ngoài tường thành được bao bọc bằng gạch có kích thước lớn (0,36m x 0,20m x 0,07m), xây khít vào nhau, giật cấp từ dưới lên giống như kỹ thuật xây các tháp. Bề mặt phía trên tường rộng 0,8m. Bên trong phần gạch ốp, tường được đắp lèn đất rất chắc bằng đất trộn gạch vụn.
Tường thành phía Nam chạy dọc theo sông Cầu Đun. Dấu vết còn lại là một dải đất cao có bề mặt rộng tới 15-20m. Cấu tạo bên trong của dải đất này giống như phần đất đắp phía trong của bức tường thành phía Bắc. Rất có thể phần gạch ốp đã bị lấy đi để xây dựng các công trình khác.
Vết tích mặt thành phía Đông là một dải đất cao với hàng loạt các gò đống nối tiếp nhau, trên đó gạch xây dựng còn vương vãi ngổn ngang. Phía bên ngoài tường thành còn rõ dấu tích một con hào phòng thủ rộng đến 30m, nối thông hai con sông Gò Tháp và Cầu Đun. Rất có thể ở mặt thành này vào thời kỳ chống quân Nguyên-Mông, người Chămpa đã gia cố thành bằng một hàng rào gỗ.
Tường thành phía Tây chỉ còn lại dấu vết trên một dải đất trộn lẫn gạch vỡ lèn cứng rộng khoảng 4-6m.
Đất trong thành hiện nay đã biến thành ruộng. Khi canh tác dân địa phương thường gặp các vỉa gạch Chàm và mảnh ngói vỡ. Đặc biệt, rải rác ở khắp nơi còn có nhiều gò, đống như gò Nhang, gò Miếu, gò Đôi, gò Hời… Rất có khả năng đó là nền móng của các công trình kiến trúc xưa trong thành.
Trong quần thể kiến trúc liên quan đến thành Thị Nại, còn rõ nhất là một ngôi tháp nằm ở phía Đông thành là tháp Bình Lâm.
Theo Địa chí Bình Định
Thị Nại là tòa thành nằm trên địa bàn thuộc các thôn: Bình Lâm, Bình Nga Đông, Bình Nga Tây và Bình Trung, xã Phước Hòa, huyện Tuy Phước. Đây là tòa thành gắn với nhiều sự kiện quan trọng trong lịch sử Chămpa nên được nhắc đến khá nhiều trong thư tịch cổ. Và cũng chính vì vậy mà sau này khi nghiên cứu lịch sử Chămpa, nhiều học giả đã cố công đi tìm di tích tòa thành này trên mặt đất.
Cho đến đầu thế kỷ này, dường như mọi sự tìm kiếm vẫn chưa đem lại kết quả. Vào năm 1933, khi công bố tác phẩm Nhập môn nghiên cứu An Nam và Champa (Introduction à 1' étude de 1' Annam et du Champa), nhà khảo cổ học Pháp J.Y Claeys, một chuyên gia Champa học nổi tiếng, đã từng cho rằng: "đáng tiếc là tòa thành này đã bị phá hủy hoàn toàn". Hi vọng tìm thấy di tích thành Thị Nại dường như đã trở thành vô vọng..
Nhưng thật may mắn, trong mấy năm gần đây, do công việc đào đắp xây dựng của nhân dân, tại địa phận thôn Bình Lâm, xã Phước Hòa, huyện Tuy Phước đã xuất lộ nhiều đoạn tường của một tòa thành cổ. Các nhà khoa học đã có dịp đến trực tiếp nghiên cứu và đều thống nhất nhận định rằng đây là dấu vết còn lại của thành Thị Nại đã được sử sách nhắc đến.
Di tích thành Thị Nại, Tuy Phong, Bình Định
Trong các tài liệu lịch sử, tòa thành này được chép dưới nhiều tên gọi khác nhau. Sách Kinh tế đại điển tự lục và Nguyên sử của Trung Quốc khi nói đến Chiêm Thành cảng, có đoạn viết: "Cửa cảng phía Bắc liền với biển, bên cạnh có 5 cảng nhỏ, thông với Đại Châu của nước ấy, phía Đông Nam có núi ngăn, phía Tây có thành Gỗ". Cửa cảng như mô tả trong sách có thể là cửa Cách Thử, hay Nha Phiên hải tấn, một hải cảng quan trọng của đất Đại Châu, mới bị lấp vào khoảng thế kỷ XIX. Núi ngăn phía Đông Nam chắc hẳn là dãy Triều Châu còn thành Gỗ chính là thành Thị Nại.
Vào thế kỷ XIII tòa thành này đã từng là nơi diễn ra những trận đấu ác liệt của quân Chămpa chống lại cuộc xâm lược trên quy mô lớn của quân Nguyên – Mông. Nằm trong chiến lược thôn tính các nước "ngoài biển" và kế hoạch hai gọng kìm tấn công Đại Việt, cuối năm 1282 vua nhà Nguyên Hốt Tất Liệt (Qubilai) đã phái một đạo thủy binh do Toa Đô (Sogetu) chỉ huy tiến đánh Champa. Ngày 30 tháng 12 năm 1282 quân Nguyên đến Chiêm Thành cảng. Quân Champa dưới sự chỉ huy trực tiếp của vua Indravarman đã tỏ ra quyết tâm kháng chiến. Thành Thị Nại trở thành cứ điểm tiền tiêu.
Sau nhiều ngày dụ dỗ và đe dọa nhưng không khuất phục nổi vua Champa, ngày 13 tháng 2 năm 1283 Toa Đô hạ lệnh tấn công thành Gỗ. Mặc dù đã chiến đấu vô cùng anh dũng nhưng vì thế giặc mạnh, quân Chămpa đã buộc phải rút lui. Thành Thị Nại lọt vào tay quân giặc. Tuy nhiên, quân Nguyên sau đó đã phải đối phó với một cuộc kháng chiến kiên cường, bền bỉ của quân và dân Chămpa.
Sau hơn một năm trời liên tục phải giao chiến mà không giành được thắng lợi, đầu tháng 3 năm 1284 Toa Đô đã phải tạm gác ý đồ chinh phục Champa, rút quân lên phía Bắc, vùng gần biên giới phía Nam của Đại Việt. Lực lượng này đã tham gia cuộc tiến công vào Đại Việt năm 1285 và chịu chung số phận thất bại với các cánh quân Nguyên khác. Tướng Toa Đô đã bị chém đầu trong trận Tây Kết.
Xa về phía bắc bên bờ trái đầm Thị Nại là vị trí của Thành Thị Nại xưa
Nhiều tài liệu lịch sử cho thấy cuộc kháng chiến chống quân Nguyên của nhân dân Champa đã nhận được sự giúp đỡ của quân Đại Việt và đặc biệt chiến thắng oanh liệt của nhân dân Việt trong cuộc kháng chiến chống Nguyên –Mông lần thứ hai diễn ra vào năm 1285 chẳng những đã bảo vệ vẹn toàn non sông Đại Việt mà còn chặn đứng được cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mông cổ xuống Champa và góp phần vào việc giải phóng hoàn toàn đất nước này.
Di tích còn lại cho thấy thành được xây dựng trên một doi đất cao nằm kẹp giữa hai phân lưu phía hạ nguồn của sông Kôn là sông Cầu Đun và Sông Gò Tháp. Thành có cấu trúc hình chữ nhật, chiều dài chạy theo hướng Đông-Tây đo được 1.300m, chiều rộng hơn 600m. Dấu tích thành còn rõ nhất ở mặt Bắc. tại đây tường thành chạy dọc theo sông Gò Tháp, dựa vào sông làm hào chắn tự nhiên. Vết tích còn lại là một dải gạch đổ dài trên 200m, trên đó còn một đoạn tường khá nguyên vẹn. Tuy đoạn tường còn sót lại chỉ dài gần 4m, cao 1,2m nhưng cũng đủ để hình dung về cấu trúc và kỹ thuật xây thành. Phần ngoài tường thành được bao bọc bằng gạch có kích thước lớn (0,36m x 0,20m x 0,07m), xây khít vào nhau, giật cấp từ dưới lên giống như kỹ thuật xây các tháp. Bề mặt phía trên tường rộng 0,8m. Bên trong phần gạch ốp, tường được đắp lèn đất rất chắc bằng đất trộn gạch vụn.
Tường thành phía Nam chạy dọc theo sông Cầu Đun. Dấu vết còn lại là một dải đất cao có bề mặt rộng tới 15-20m. Cấu tạo bên trong của dải đất này giống như phần đất đắp phía trong của bức tường thành phía Bắc. Rất có thể phần gạch ốp đã bị lấy đi để xây dựng các công trình khác.
Vết tích mặt thành phía Đông là một dải đất cao với hàng loạt các gò đống nối tiếp nhau, trên đó gạch xây dựng còn vương vãi ngổn ngang. Phía bên ngoài tường thành còn rõ dấu tích một con hào phòng thủ rộng đến 30m, nối thông hai con sông Gò Tháp và Cầu Đun. Rất có thể ở mặt thành này vào thời kỳ chống quân Nguyên-Mông, người Chămpa đã gia cố thành bằng một hàng rào gỗ.
Tường thành phía Tây chỉ còn lại dấu vết trên một dải đất trộn lẫn gạch vỡ lèn cứng rộng khoảng 4-6m.
Đất trong thành hiện nay đã biến thành ruộng. Khi canh tác dân địa phương thường gặp các vỉa gạch Chàm và mảnh ngói vỡ. Đặc biệt, rải rác ở khắp nơi còn có nhiều gò, đống như gò Nhang, gò Miếu, gò Đôi, gò Hời… Rất có khả năng đó là nền móng của các công trình kiến trúc xưa trong thành.
Trong quần thể kiến trúc liên quan đến thành Thị Nại, còn rõ nhất là một ngôi tháp nằm ở phía Đông thành là tháp Bình Lâm.
Theo Địa chí Bình Định
Nhận xét
Đăng nhận xét