Từ Thành Đồ Bàn đến Thành Hoàng Đế - Phần 2
Năm 1471, sau khi Lê Thánh Tông ra lệnh hủy Vijaya thì Thành Đồ Bàn bị bỏ hoang, nơi định đô lâu nhất trong tiến trình lịch sử của vương quốc Champa kết thúc sau 5 thế kỷ.
Phong Nguyễn Huệ làm Bắc Bình Vương, cai quản vùng đất từ đèo Hải Vân trở ra Bắc.
Năm 1793, Nguyễn Ánh biết sự kiện này mang quân bắc tiến đánh Quy Nhơn. Các cánh quân dưới quyền Tây Sơn vương đều yếu ớt nhanh chóng bại trận hoặc bỏ chạy, để mất Phú Yên. Quân Nguyễn Ánh tiến ra vây hãm thành Quy Nhơn. Nguyễn Nhạc ốm yếu không thể cầm quân nên sai con là Quang Bảo ra cự địch. Thành bị vây hãm 3 tháng. Trong tình thế nguy cấp, ông phải viết thư cầu cứu cháu. Cảnh Thịnh sai Ngô Văn Sở, Phạm Công Hưng mang quân vào cứu, quân Nguyễn Ánh phải rút lui về Phú Yên.
Dù Nguyễn Nhạc đã sai mang vàng bạc ra khao quân Phú Xuân nhưng Công Hưng vẫn chiếm cứ thành Quy Nhơn, kê biên kho tàng của Nhạc. Thấy kho báu bao năm của mình sắp truyền cho con bị chính cháu ruột đoạt mất, ông uất ức ho ra máu rồi chết. Về phần Quang Bảo, bị an trí ra huyện Phù Ly, gọi là Tiểu triều. Thật ra, Cảnh Thịnh lúc này mới chỉ 10 tuổi, việc này đổ lên đầu Thịnh cũng có chút oan. Nguyễn Nhạc ở ngôi tổng cộng 15 năm (1778 – 1793).
Năm 1799, Quang Bảo không cam chiếm lại thành Quy Nhơn rồi định theo hàng Nguyễn Ánh. Quân của Ánh chưa tới thì Cảnh Thịnh đã điều quân chiếm lại thành, giết chết Quang Bảo. Nguyễn Ánh đến nơi vây thành Quy Nhơn. Lương thiếu mà chờ mãi không có viện binh, các quan tướng giữ thành Quy Nhơn của Tây Sơn là Vũ Tuấn, Lê Văn Thanh, Trương Tấn Thúy và Nguyễn Đại Phác cầm hơn 1 vạn quân mở cổng thành đầu hàng. Sau khi chiếm được thành Quy Nhơn, Nguyễn Ánh bèn đổi tên Quy Nhơn thành Bình Định và cho Võ Tánh trấn thủ.
Về phần Võ Tánh và Ngô Tùng Châu cùng các tướng giữ thành Bình Định thấy đã cạn kiệt lương thực, biết không chống nổi Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng, nên tự sát để bảo toàn tính mạng cho quân lính trong thành. Tây Sơn tái chiếm thành Bình Định. Trần Quang Diệu cùng Vũ Văn Dũng nghe tin Quang Toản đã bại trận, phải bỏ thành, mang quân ra cứu viện Nghệ An. Bị quân Nguyễn chặn đường, quân Tây Sơn buộc phải vòng qua đường Vạn Tượng (Lào). Lúc tới Nghệ An thì thành đã mất, quân sĩ bỏ chạy gần hết, vợ chồng Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân bị bắt. Riêng Vũ Văn Dũng không rõ số phận.
Thời gian như bóng câu qua cửa, hôm qua, Nguyễn Ánh lên ngôi. Hôm nay, nhà Nguyễn suy bại. Một trăm năm trôi, Pháp xâm lược Đại Nam, nhà Nguyễn chỉ còn là con rối của người Pháp.
Trong bối cảnh đó, một ngày nắng đẹp không mưa, năm 1904, một nhà khảo cổ người Pháp, tên Henri Parmentier tìm đến thành cũ. Những cái tên Thành Hoàng Đế, Thành Quy Nhơn, Thành Bình Định dành cho địa điểm này không còn ai nhắc đến. Vì sao? Hoàng Đế chỉ dùng cho vua, không được gọi loạn. Quy Nhơn lúc này là tên một đô thị ven biển mới nổi. Còn Bình Định, cái tên cuối cùng của ngôi thành này giờ được dùng để chỉ cho một ngôi thành khác ở phường Bình Định hiện nay. Lúc này người ta gọi nó với cái tên Thành Chà Bàn. Henri Parmentier đến đây thấy gì:
- Ông thấy những tường thành đổ nát, thứ mà ngày nay du khách khó thấy nếu không để ý. Không sao, t cho bạn xem ngay bên dưới. Tọa độ của bức tường là 13.9236,109.0840 , nằm phía sau Cụm công nghiệp Gò Đá Trắng. Đây là đoạn cuối của tường thành phía nam. Nếu tò mò, hãy copy dãy số đó dán vào Google Map, bạn sẽ biết vị trí cụ thể.
- Đi tiếp về hướng tây ông thấy tháp Cánh Tiên, nó tàn tạ hơn bây giờ nhiều (xem hình tháp lúc đó ở Phần 1).
- Rẽ trái rồi đi một đoạn ông gặp một lăng mộ - Lăng Võ Tánh. Vâng, nó đúng là một lăng mộ như cách mà người dân nơi đây hay gọi. Chẳng phải Thành Hoàng Đế, cách gọi có chút khoa trương như ngày nay. Ông ấy không thấy những thứ mà ngày nay du khách đang thấy.
Khoảng năm 1929, người ta xây thêm cái miếu thờ Võ Tánh cùng với chiếc cổng miếu, rồi người ta gọi là Miếu Song Trung. Nay những thứ này có cái tên "đẹp" hơn là Lầu Bát Giác và cổng Thành Hoàng Đế. Các trang du lịch cứ thế copy qua lại, rồi thêm thắt một chút cho bóng bẩy. Vì cách gọi này mà t cược rằng, nhiều người sẽ hiểu lầm và thất vọng khi đến đây. Họ cảm giác như mua đầu heo nhưng nhận về thịt chó. Rồi họ ra đi, đi luôn. Nay khách vắng tanh, mỗi ngày được dăm ba người tò mò đến thăm thú, rờ rẫm, sờ soạng, phát hiện vài cọc sắt han rỉ, tự hỏi: "Hồi đó, người ta đúc bê tông được rồi à". Họ không biết rằng, đúng là đang đứng trên Thành Hoàng Đế, một ngôi thành lớn bậc nhất Việt Nam. Nhưng nó đang ẩn dưới đất sâu, và chỉ còn tàn tích. Thôi thì hoan hỉ, thăm Lăng Võ Tánh, thắp một nén hương cũng tốt, ông ấy là một anh hùng.
Tại Lăng Võ Tánh, Henri Parmentier nghỉ ngơi, và chụp thêm vài bức ảnh 2 sư tử đá cùng với các em bé tò mò tại đây.
Trước tiên, mời bạn đọc văn phong một đoạn bài đăng phổ biến trên mạng.
"Đến năm 1815, lị sở của trấn Bình Định được dời vào phía Nam (thôn Kim Châu, nay là khu vực Nguyễn Thị Minh Khai, thị trấn Bình Định). Nhà Nguyễn cho triệt hạ hết các cung điện cũ của thành Hoàng Đế, dỡ đá ong của thành cũ mang đi xây thành mới, trừ lầu Bát Giác được sửa sang lại làm Đền Song Trung thờ Võ Tánh và Ngô Tùng Châu (sau này còn có tên gọi là Đền Chiêu Trung)."
Giờ đến lượt t nói. So sánh quá khứ và hiện tại:
Ở bức ảnh trên, ta thấy Lăng Võ Tánh đã được nâng cấp. Bên trái ảnh là Miếu Song Trung được xây dựng thêm. Sư tử đá đối diện nằm khuất sau hành lang nối lăng và miếu Song Trung. T không thích gọi nó là Lầu Bát Giác như mọi người hay gọi, bởi vì nó không phải là cái lầu. Trung tâm Tử Cấm Thành, bộ mặt của Thành Hoàng Đế không thể có lầu bằng cái chòi hóng mát như vậy được. Vô hình chung, các giáo sư pịa đã làm mất đi giá trị của Thành Hoàng Đế.
Ở ảnh tiếp theo, bức tường đá ong trong Tử Cấm Thành bị thay bằng bức tường gạch. Nguyên sơ, Tử Cấm Thành không có bức tường này, nó là tường đá của Lăng Võ Tánh. Bức tường đá không còn có 2 nguyên nhân khả dĩ. Một là, khi nâng cấp lăng, nhà Nguyễn đã dỡ bỏ vì thấy ngứa mắt. Hai là, dân quanh vùng lấy đi xây chuồng heo. Họ dùng xây chuồng heo chứ cũng chẳng thiết dùng xây nhà. Cách đây 30 năm, loại đá này vẫn được dân An Nhơn khai thác phổ biến để xây móng nhà. Những cục đá cũ này không có nhiều giá trị để Nguyễn Ánh tận dụng xây Thành Bình Định như vài trang mạng mô tả, thật nhảm nhí.
Tiếp tục cuộc hành trình của Henri Parmentier. Ông nhận ra nơi đây có rất nhiều điều thú vị, và ông đã soi mói từng mảnh đất tại đây suốt nhiều ngày. Với một nhà khảo cổ, "từng mảnh đất" ở đây là theo nghĩa đen, chứ không phải là một câu nói văn vẻ. Năm 2025, ông đã kể những gì ông thấy cho t nghe. À nhầm, đến năm 1909, ông công bố những gì nguyên cứu được trong "Thống kê khảo tả các di tích tháp Chàm ở Trung Kỳ". Nhờ những mô tả chi tiết của ông mà ngày nay các nhà khoa học dễ dàng vẽ lại được Thành Hoàng Đế một cách cụ thể.
Nguyên cứu của ông cho thấy Thành Hoàng Đế về cơ bản là kế thừa hoàn toàn về quy mô, cấu trúc, hình dáng của Thành Đồ Bàn xưa. Thành gồm 3 lớp tường thành.
Lớp trong cùng là Tử Cấm Thành hình chữ nhật kích thước 126x174m (hình 4). Lớp tường này ngày nay đã được phục dựng lại tương đối tốt. Tử Cấm Thành chỉ có một cửa vị trí như ngày nay có 3 tên gọi: Nam Lâu, Tam Quan, Quyền Bổng. Bên trong Tử Cấm Thành đã khai quật được 2 hồ bán nguyệt nằm 2 bên Lăng Võ Tánh (hình 5, 6). Như vậy, bên dưới gần như toàn bộ khuôn viên Lăng Võ Tánh (khu vực tường gạch ở giữa) là một nền móng của một công trình kiến trúc chính của Tử Cấm Thành (chánh điện). Việc dỡ bỏ toàn bộ lăng này để khám phá những gì bên dưới là điều bắt buộc trong tương lai.
Lớp tường thứ 2 (thành nội) cũng hình chữ nhật kích thước 430x370m. Lớp tường này không còn, nhưng vẫn còn một số dấu tích (hình 7). Khác với tường Tử Cấm Thành hoàn toàn bằng đá ong, tường thành nội bên trong đắp đất, bên ngoài bó đá ong hai bên, có 3 cửa. Tường đông và nam nay thành đường đi, tường bắc nay là đường mòn, tường tây thì trở thành một đoạn đường sắt. Cửa nam là cửa chính nên gọi là cửa Tiền ngay giữa hai voi đá. Cửa đông và cửa tây nằm giữa tường thành như hình 7.
Từ nguyên cứu ban đầu của Henri Parmentier, người Pháp coi trọng giá trị của Thành Hoàng Đế. Năm 1926, một cuộc khảo sát và khai quật quy mô lớn được tổ chức tại đây. Một chiếc máy bay được điều động bay quanh thành và chụp hơn 20 bức ảnh trên không, sau đó ghép lại thành một tấm không ảnh lớn mô tả toàn bộ ngôi thành này. Và lớp tường thành cuối cùng, lớp thứ 3 - Thành Ngoại, đã thể hiện rõ ràng với chu vi cực lớn: 7.482m, tổng diện tích 3,42km vuông.

Và bây giờ là giai đoạn đau đầu. Những lời t nói phía dưới, bạn khó thông nổi nếu không tập trung. Hãy mở Google Map và đọc nhé.
So sánh với ảnh vệ tinh hiện nay, cạnh phía nam bắt đầu từ Nghĩa trang liệt sĩ Đập Đá (tọa độ: 13.9239,109.0855 , copy dãy số này dán vào Google Map để biết vị trí chính xác) theo đường Đào Duy Từ - Lê Duẩn - Đô Đốc Long đến Quán Nhậu Bình Dân Thanh Lịch (13.9375,109.0854). Cạnh phía bắc từ Quán Nhậu Bình Dân Thanh Lịch theo đường Đô Đốc Long đến Cầu Bến Gỗ (13.9356,109.0657). Cây cầu này khi đó là bến đò của Thành Hoàng Đế. Cạnh phía tây từ Cầu Bến Gỗ chạy theo đường cong dọc bờ ruộng đến tọa độ 13.9214,109.0660 , gần nghĩa địa Nhơn Hậu. Cạnh phía nam từ tọa độ trên (13.9214,109.0660) đến Nghĩa trang liệt sĩ Đập Đá, khép kín vòng thành 4 mặt.
Chiều dài các cạnh không đều nhau, cạnh phía bắc dài 2.038m, cạnh phía Nam dài 2.118m, cạnh phía Đông tương đối thẳng dài 1.564m, cạnh phía Tây uốn lượn, hơi lệch về hướng Tây-Nam, dài 1.610m.
Thành có 5 cửa. Ở ảnh vệ tinh, các cửa được đánh dấu bằng ô vuông màu xanh.
- Cửa Đông gọi là cửa Tả, nằm tại giao cắt Lê Duẩn và Huyền Trân Công Chúa.
- Cửa Tây là cửa Hữu, tọa độ 13.9326,109.0649 , nằm chếch về phía bắc cạnh bến đò Bến Gỗ.
- Cửa Bắc là cửa Hậu, tọa độ 13.9368,109.0778 , đường vào cửa này nằm giữa Chùa Thập Tháp và Tháp Mắm.
- Thành nhìn về hướng Nam, nên cửa Vệ (cửa Nam) còn có tên là cửa Tiền, tọa độ 13.9216,109.0694 . Cửa này nằm tại đường sắt, lệch về bên phải Thành Nội một chút.
- Ngoài các cửa trên, mặt phía Nam còn mở thêm một cửa - cửa Tân Khai (mới mở). Vị trí này thuộc Khu vực Nam Tân ngày nay. Phải chăng tên khu vực này cũng có liên quan đến cửa thành. Ở ảnh vệ tinh, Thành Nội và Tử Cấm Thành được đánh dấu bằng màu tím và đỏ. Bạn dễ dàng nhận ra trung tâm của thành nằm lệch về hướng tây nam. Nguyễn Nhạc kế thừa toàn bộ Thành Đồ Bàn trước kia. Sau đó, ông mở rộng thành về hướng đông, nên cấu trúc thành có sự kỳ lạ như thế. Các cửa thành cũ đều được giữ lại, sau vì xét thấy cửa tả hơi lệch phía hữu, vả lại ở phía trước mặt cung thất không tiện cho sự vận chuyển, bèn mở thêm 1 cửa ở phía tả.
Như vậy, t đã mô tả toàn bộ Thành Ngoại cho các bạn rồi. Còn một vị trí hơi đặc biệt với t. Quốc lộ 1 đi qua khu vực Bả Canh, tận dụng tường thành đông làm đường đi, khi đến góc đông bắc thành thì bẻ cua rất gấp. Nay đường được nắn thẳng hơn, đoạn cua trở thành công viên. Khi đó t không hiểu lý do. Giờ thì đã hiểu.
Còn một nhiệm vụ nữa. Ở bên trên, t hứa sẽ cho bạn biết quy mô Thành Đồ Bàn. Từ Thành Hoàng Đế, ta đã biết được gần như toàn bộ về Thành Đồ Bàn, trừ bức tường thành hướng đông. T chưa tìm được tài liệu cho biết cụ thể về nó. Nhưng dựa vào thực tế và thói quen thích dựa vào địa hình để xây thành của người Chăm, t đã tìm được nó. Chính là đường chỉ màu trắng ở hình dưới.
T đã nói rất nhiều về ngôi thành này nhưng vẫn còn nhiều điều cần khám phá. Có những điều t biết nhưng còn mơ hồ nên không dám nói bừa. Những điều mơ hồ để dành cho các nhà khoa học vậy. Chỉ với ngôi thành này đã chứa đựng biết bao vui, buồn, hạnh phúc, đau thương của biết bao vĩ nhân. Họ có nhiều khác biệt, nhưng ít nhất có một điểm chung. Điểm chung đó chính là chúng ta. Họ là tổ tiên của t và bạn. Thế hệ con cháu của những anh hùng!
Nhận xét
Đăng nhận xét