Từ Thành Đồ Bàn đến Thành Hoàng Đế - Phần 2

 Cổng chính Lăng Võ Tánh, xưa là Tử cấm thành

Từ tàn tích, Thành Hoàng Đế khai sinh:

Năm 1471, sau khi Lê Thánh Tông ra lệnh hủy Vijaya thì Thành Đồ Bàn bị bỏ hoang, nơi định đô lâu nhất trong tiến trình lịch sử của vương quốc Champa kết thúc sau 5 thế kỷ.

Năm 1472, vùng đất này sát nhập vào Đại Việt thuộc đạo Thừa Tuyên Quảng Nam (có thể xem như tỉnh hiện nay). Đơn vị hành chính Quảng Nam Thừa Tuyên thống lĩnh 3 phủ (thành phố), 9 huyện, trị sở đặt tại thành Châu Sa (Quảng Ngãi). Thành Đồ Bàn thuộc huyện Tuy Viễn, phủ Hoài Nhơn. 

Thời gian thoi đưa, nhà Lê suy tàn chỉ còn danh nghĩa, các chúa nắm quyền phân chia 2 đàng: đàng Trong có chúa Trịnh, đàng Ngoài có chúa Nguyễn, ranh giới là sông Gianh (Quảng Bình). Từ thời các chúa Nguyễn, ở đàng Trong nói chung, Bình Định nói riêng đã có sự phân hóa giàu nghèo, địa vị khác nhau và các tầng lớp trong xã hội. Đặc biệt vào đầu thế kỷ XVII, vấn đề trên càng trở nên mâu thuẫn sâu sắc. Ở Bình Định đã nổ ra nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân, trong đó tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Chàng Lía nhưng tồn tại chẳng bao lâu, cuộc khởi nghĩa của Lía bị thất bại.

Năm 1771, Nguyễn Nhạc (chữ Hán: 阮岳; 1743 – 1793) hay còn gọi là Nguyễn Văn Nhạc cùng 2 người em dấy binh khởi nghĩa tại ấp Tây Sơn.

Năm 1773, Nguyễn Nhạc tự trói mình ngồi trong cũi, sai quân giả hàng khiêng tới Phủ thành Quy Nhơn giao nộp cho quan tuần phủ Nguyễn Khắc Tuyên. Đêm đến nghĩa quân kéo đến vây thành, Nguyễn Nhạc cùng quân lính trá hàng trong thành phá cũi, mở cửa thành cho quân Tây Sơn tiến vào chiếm thành. Nguyễn Khắc Tuyên không kịp mang theo gia quyến, bỏ chạy trong đêm. 

Lúc này, phủ Hoài Nhơn trước đây đã đổi tên phủ Quy Nhơn. Phủ thành Quy Nhơn thuộc khu vực Châu Thành, phường Nhơn Thành, thị xã An Nhơn ngày nay. Nay vị trí này chỉ còn lại một đoạn tường thành tại đường Trương Văn Đà. Phủ thành Quy Nhơn chính là đại bản doanh đầu tiên của nhà Tây Sơn.

Phủ thành Quy Nhơn được xây dựng nằm chính giữa, bao quanh là bờ thành bao chạy vào tận sát núi, trước thành có cổng thành xây kiểu cổ lầu nằm trên khoảng đất rộng, vào bên trong là khu dân cư hay nhà các chức việc làm việc trong thành. Trong khu này có chùa, tháp xây theo kiểu cửu trùng đài. Trong cùng là thành Quy Nhơn được vẽ hình khối vuông, thành xây cao, cổng xây kiểu vòm cuốn, chính giữa có cờ màu đỏ, quanh có rìa.

Bản đồ trên được vẽ vào năm 1785, tức khi thành Quy Nhơn đã được Nguyễn Nhạc và anh em Tây Sơn làm đại bản doanh của cuộc khởi nghĩa. Ở đây có một nét tư liệu rất quan trọng và chân thực, đó là màu cờ của Tây Sơn là màu đỏ, minh xác thông tin cờ Tây Sơn là một dải lụa màu đỏ dài 9 thước ta trong các tư liệu lịch sử sau này.

Tháng 3 năm 1776, nhận thấy Phủ thành Quy Nhơn quá nhỏ, Nguyễn Nhạc quyết định sửa chữa, nâng cấp Thành Đồ Bàn bên cạnh.


Năm 1778, Thành Đồ Bàn xây xong, Nguyễn Nhạc lấy Thành Đồ Bàn làm đại bản doanh, tế cáo trời đất, lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu là Thái Đức, rồi đổi tên là thành Hoàng Đế. 300 năm sau, Thành Đồ Bàn xưa kia đã hồi sinh. 

Đây là toà thành giữ vai trò quan trọng trong cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, làm bàn đạp từ đây đánh Nam diệt Bắc. Kể từ đây vai trò của Nguyễn Nhạc ngày càng lu mờ. Người em của ông - Nguyễn Huệ nổi lên như một ngôi sao sáng đóng góp quyết định vào sự nghiệp thống nhất đất nước của triều đại Tây Sơn. Và cũng kể từ đây, mâu thuẫn giữa Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ ngày càng lên cao. 

Đầu năm 1787 Nguyễn Huệ viết hịch kể tội Nguyễn Nhạc và mang 6 vạn quân từ Phú Xuân (Huế) nam tiến vây thành Hoàng Đế. Nguyễn Nhạc bị vây ngặt bèn gọi Đặng Văn Trấn, đang trấn thủ Gia Định, ra cứu. Trấn vâng lệnh mang quân ra, nhưng đến Phú Yên đã bị Nguyễn Huệ bắt sống. Nguyễn Huệ nã pháo tới tấp vào thành Hoàng Đế. Nguyễn Nhạc bị vây bức quá phải lên thành khóc xin em "Nỡ lòng nào mà nồi da xáo thịt như thế". Nguyễn Huệ bằng lòng giảng hòa với anh rồi rút về Thuận Hóa.

Tháng 4 năm 1787, để vỗ về hai em, Nguyễn Nhạc tự xưng là Trung ương Hoàng đế, đóng đô ở Quy Nhơn và phong vương cho hai em, mỗi người chia nhau giữ một khu vực:
Phong Nguyễn Lữ làm Đông Định Vương, cai quản vùng đất Gia Định.
Phong Nguyễn Huệ làm Bắc Bình Vương, cai quản vùng đất từ đèo Hải Vân trở ra Bắc.

Anh em vua Thái Đức mâu thuẫn khiến đối thủ lợi dụng ngay lập tức. Ở phía bắc, họ Trịnh ngóc đầu dậy rồi Nguyễn Hữu Chỉnh ra sức hoành hành. Ở phía nam, tháng 07 năm 1787, Nguyễn Ánh cũng nhân cơ hội lực lượng Tây Sơn bị chia rẽ để quay trở về đánh lại Gia Định. Người em Đông Định vương - Nguyễn Lữ chưa đánh nhau đã bỏ chạy về Biên Hoà, bỏ Gia Định cho Phạm Văn Tham giữ. Sau lại chạy luôn một mạch về Quy Nhơn rồi ốm và qua đời khiến vua Thái Đức mất một chỗ dựa về tinh thần.

Diễn biến chiến trường nam bộ ngày càng tệ, khiến Nguyễn Nhạc tỏ ra bất lực. Cuối năm 1788, Nguyễn Nhạc từ bỏ đế hiệu, tự xưng là Tây Sơn vương, đổi tên thành Hoàng Đế là thành Quy Nhơn và thỉnh cầu Nguyễn Huệ vào cứu (chiếu lên ngôi của Quang Trung có đoạn "...về phần đại huynh có ý mỏi mệt, tình nguyện giữ một phủ Quy Nhơn, tự nhún xưng là Tây Vương, mấy nghìn dặm đất về phương nam thuộc hết về trẫm...).

Ngày 22 tháng 12 năm 1788, Nguyễn Huệ lên ngôi đế lấy hiệu Quang Trung, sau đó bắc tiến đánh tan quân Thanh.

Ngày 06 tháng 09 năm 1792, sau khi dẹp yên bắc hà, Nguyễn Huệ sắp xếp nam tiến định đánh Nguyễn Ánh thì qua đời đột ngột. Nguyễn Quang Toản lên ngôi thay cha, lấy hiệu Cảnh Thịnh.

Năm 1793, Nguyễn Ánh biết sự kiện này mang quân bắc tiến đánh Quy Nhơn. Các cánh quân dưới quyền Tây Sơn vương đều yếu ớt nhanh chóng bại trận hoặc bỏ chạy, để mất Phú Yên. Quân Nguyễn Ánh tiến ra vây hãm thành Quy Nhơn. Nguyễn Nhạc ốm yếu không thể cầm quân nên sai con là Quang Bảo ra cự địch. Thành bị vây hãm 3 tháng. Trong tình thế nguy cấp, ông phải viết thư cầu cứu cháu. Cảnh Thịnh sai Ngô Văn Sở, Phạm Công Hưng mang quân vào cứu, quân Nguyễn Ánh phải rút lui về Phú Yên.

Dù Nguyễn Nhạc đã sai mang vàng bạc ra khao quân Phú Xuân nhưng Công Hưng vẫn chiếm cứ thành Quy Nhơn, kê biên kho tàng của Nhạc. Thấy kho báu bao năm của mình sắp truyền cho con bị chính cháu ruột đoạt mất, ông uất ức ho ra máu rồi chết. Về phần Quang Bảo, bị an trí ra huyện Phù Ly, gọi là Tiểu triều. Thật ra, Cảnh Thịnh lúc này mới chỉ 10 tuổi, việc này đổ lên đầu Thịnh cũng có chút oan. Nguyễn Nhạc ở ngôi tổng cộng 15 năm (1778 – 1793). 

Năm 1799, Quang Bảo không cam chiếm lại thành Quy Nhơn rồi định theo hàng Nguyễn Ánh. Quân của Ánh chưa tới thì Cảnh Thịnh đã điều quân chiếm lại thành, giết chết Quang Bảo. Nguyễn Ánh đến nơi vây thành Quy Nhơn. Lương thiếu mà chờ mãi không có viện binh, các quan tướng giữ thành Quy Nhơn của Tây Sơn là Vũ Tuấn, Lê Văn Thanh, Trương Tấn Thúy và Nguyễn Đại Phác cầm hơn 1 vạn quân mở cổng thành đầu hàng.  Sau khi chiếm được thành Quy Nhơn, Nguyễn Ánh bèn đổi tên Quy Nhơn thành Bình Định và cho Võ Tánh trấn thủ.


Cũng vì Quy Nhơn mang tính đất tổ, Tây Sơn ngay lập tức tìm cách chiếm lại. Cuối năm 1799, hai đại tướng Tây Sơn là Thiếu phó Trần Quang Diệu và Tư đồ Vũ Văn Dũng đã kéo quân bộ và thủy vào đánh thành Bình Định. Đến tháng 1 năm 1800, quân Tây Sơn bắt đầu vây thành Bình Định. Nhận thấy quân Tây Sơn vây Quy Nhơn còn mạnh, Nguyễn Ánh cho người lẻn mang thư bảo Võ Tánh mở đường máu trốn ra nhưng Võ Tánh kiên quyết tử thủ để tạo đều kiện cho Nguyễn Ánh đánh Phú Xuân, chính việc này khiến thời gian hai đại tướng Tây Sơn bị cầm chân lên hơn một năm.

Về phần Võ Tánh và Ngô Tùng Châu cùng các tướng giữ thành Bình Định thấy đã cạn kiệt lương thực, biết không chống nổi Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng, nên tự sát để bảo toàn tính mạng cho quân lính trong thành. Tây Sơn tái chiếm thành Bình Định. Trần Quang Diệu cùng Vũ Văn Dũng nghe tin Quang Toản đã bại trận, phải bỏ thành, mang quân ra cứu viện Nghệ An. Bị quân Nguyễn chặn đường, quân Tây Sơn buộc phải vòng qua đường Vạn Tượng (Lào). Lúc tới Nghệ An thì thành đã mất, quân sĩ bỏ chạy gần hết, vợ chồng Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân bị bắt. Riêng Vũ Văn Dũng không rõ số phận.

Bìa sách Trung tiết anh hùng: Lịch sử ông Võ Tánh (1930) của tác giả Huyền Mặc đạo nhân miêu tả cảnh Võ Tánh tự sát cuối cuộc bao vây thành Quy Nhơn sau một thời gian cầm chân đại quân Tây Sơn tại đây.

Thời gian như bóng câu qua cửa, hôm qua, Nguyễn Ánh lên ngôi. Hôm nay, nhà Nguyễn suy bại. Một trăm năm trôi, Pháp xâm lược Đại Nam, nhà Nguyễn chỉ còn là con rối của người Pháp.

Trong bối cảnh đó, một ngày nắng đẹp không mưa, năm 1904, một nhà khảo cổ người Pháp, tên Henri Parmentier tìm đến thành cũ. Những cái tên Thành Hoàng Đế, Thành Quy Nhơn, Thành Bình Định dành cho địa điểm này không còn ai nhắc đến. Vì sao? Hoàng Đế chỉ dùng cho vua, không được gọi loạn. Quy Nhơn lúc này là tên một đô thị ven biển mới nổi. Còn Bình Định, cái tên cuối cùng của ngôi thành này giờ được dùng để chỉ cho một ngôi thành khác ở phường Bình Định hiện nay. Lúc này người ta gọi nó với cái tên Thành Chà Bàn. Henri Parmentier đến đây thấy gì:

- Ông thấy những tường thành đổ nát, thứ mà ngày nay du khách khó thấy nếu không để ý. Không sao, t cho bạn xem ngay bên dưới. Tọa độ của bức tường là 13.9236,109.0840 , nằm phía sau Cụm công nghiệp Gò Đá Trắng. Đây là đoạn cuối của tường thành phía nam. Nếu tò mò, hãy copy dãy số đó dán vào Google Map, bạn sẽ biết vị trí cụ thể.


- Rồi ông già này đến đầu đường Huyền Trân Công Chúa và phát hiện dấu vết rất rõ của một chiếc cổng ở đoạn tường phía Đông, nó bị ngập nước (hình 3, nay đã không còn gì). Bạn đừng hỏi t vì sao lúc đó có đường Huyền Trân Công Chúa nhé.

- Đi tiếp về hướng tây ông thấy tháp Cánh Tiên, nó tàn tạ hơn bây giờ nhiều (xem hình tháp lúc đó ở Phần 1).

- Rẽ trái rồi đi một đoạn ông gặp một lăng mộ - Lăng Võ Tánh. Vâng, nó đúng là một lăng mộ như cách mà người dân nơi đây hay gọi. Chẳng phải Thành Hoàng Đế, cách gọi có chút khoa trương như ngày nay. Ông ấy không thấy những thứ mà ngày nay du khách đang thấy.

Lăng Võ Tánh 1904
Ảnh 2014

Khoảng năm 1929, người ta xây thêm cái miếu thờ Võ Tánh cùng với chiếc cổng miếu, rồi người ta gọi là Miếu Song Trung. Nay những thứ này có cái tên "đẹp" hơn là Lầu Bát Giác và cổng Thành Hoàng Đế. Các trang du lịch cứ thế copy qua lại, rồi thêm thắt một chút cho bóng bẩy. Vì cách gọi này mà t cược rằng, nhiều người sẽ hiểu lầm và thất vọng khi đến đây. Họ cảm giác như mua đầu heo nhưng nhận về thịt chó. Rồi họ ra đi, đi luôn. Nay khách vắng tanh, mỗi ngày được dăm ba người tò mò đến thăm thú, rờ rẫm, sờ soạng, phát hiện vài cọc sắt han rỉ, tự hỏi: "Hồi đó, người ta đúc bê tông được rồi à".  Họ không biết rằng, đúng là đang đứng trên Thành Hoàng Đế, một ngôi thành lớn bậc nhất Việt Nam. Nhưng nó đang ẩn dưới đất sâu, và chỉ còn tàn tích. Thôi thì hoan hỉ, thăm Lăng Võ Tánh, thắp một nén hương cũng tốt, ông ấy là một anh hùng.

Ảnh 1904

Ảnh 1904

Tại Lăng Võ Tánh, Henri Parmentier nghỉ ngơi,  và chụp thêm vài bức ảnh 2 sư tử đá cùng với các em bé tò mò tại đây. 

Trước tiên, mời bạn đọc văn phong một đoạn bài đăng phổ biến trên mạng.

"Đến năm 1815, lị sở của trấn Bình Định được dời vào phía Nam (thôn Kim Châu, nay là khu vực Nguyễn Thị Minh Khai, thị trấn Bình Định). Nhà Nguyễn cho triệt hạ hết các cung điện cũ của thành Hoàng Đế, dỡ đá ong của thành cũ mang đi xây thành mới, trừ lầu Bát Giác được sửa sang lại làm Đền Song Trung thờ Võ Tánh và Ngô Tùng Châu (sau này còn có tên gọi là Đền Chiêu Trung)."

Giờ đến lượt t nói. So sánh quá khứ và hiện tại:

Ảnh 1904

Ảnh 2025

Ở bức ảnh trên, ta thấy Lăng Võ Tánh đã được nâng cấp. Bên trái ảnh là Miếu Song Trung được xây dựng thêm. Sư tử đá đối diện nằm khuất sau hành lang nối lăng và miếu Song Trung. T không thích gọi nó là Lầu Bát Giác như mọi người hay gọi, bởi vì nó không phải là cái lầu. Trung tâm Tử Cấm Thành, bộ mặt của Thành Hoàng Đế không thể có lầu bằng cái chòi hóng mát như vậy được. Vô hình chung, các giáo sư pịa đã làm mất đi giá trị của Thành Hoàng Đế.

Sư tử đá 1904
Ảnh 2025
Mộ Võ Tánh 1904
Ảnh 2023

Ở ảnh tiếp theo, bức tường đá ong trong Tử Cấm Thành bị thay bằng bức tường gạch. Nguyên sơ, Tử Cấm Thành không có bức tường này, nó là tường đá của Lăng Võ Tánh. Bức tường đá không còn có 2 nguyên nhân khả dĩ. Một là, khi nâng cấp lăng, nhà Nguyễn đã dỡ bỏ vì thấy ngứa mắt. Hai là, dân quanh vùng lấy đi xây chuồng heo. Họ dùng xây chuồng heo chứ cũng chẳng thiết dùng xây nhà. Cách đây 30 năm, loại đá này vẫn được dân An Nhơn khai thác phổ biến để xây móng nhà. Những cục đá cũ này không có nhiều giá trị để Nguyễn Ánh tận dụng xây Thành Bình Định như vài trang mạng mô tả, thật nhảm nhí.

Tiếp tục cuộc hành trình của Henri Parmentier. Ông nhận ra nơi đây có rất nhiều điều thú vị, và ông đã soi mói từng mảnh đất tại đây suốt nhiều ngày. Với một nhà khảo cổ, "từng mảnh đất" ở đây là theo nghĩa đen, chứ không phải là một câu nói văn vẻ. Năm 2025, ông đã kể những gì ông thấy cho t nghe. À nhầm, đến năm 1909, ông công bố những gì nguyên cứu được trong "Thống kê khảo tả các di tích tháp Chàm ở Trung Kỳ". Nhờ những mô tả chi tiết của ông mà ngày nay các nhà khoa học dễ dàng vẽ lại được Thành Hoàng Đế một cách cụ thể.

Nguyên cứu của ông cho thấy Thành Hoàng Đế về cơ bản là kế thừa hoàn toàn về quy mô, cấu trúc, hình dáng của Thành Đồ Bàn xưa. Thành gồm 3 lớp tường thành.

Lớp trong cùng là Tử Cấm Thành hình chữ nhật kích thước 126x174m (hình 4). Lớp tường này ngày nay đã được phục dựng lại tương đối tốt. Tử Cấm Thành chỉ có một cửa vị trí như ngày nay có 3 tên gọi: Nam Lâu, Tam Quan, Quyền Bổng.  Bên trong Tử Cấm Thành đã khai quật được 2 hồ bán nguyệt nằm 2 bên Lăng Võ Tánh (hình 5, 6). Như vậy, bên dưới gần như toàn bộ khuôn viên Lăng Võ Tánh (khu vực tường gạch ở giữa) là một nền móng của một công trình kiến trúc chính của Tử Cấm Thành (chánh điện). Việc dỡ bỏ toàn bộ lăng này để khám phá những gì bên dưới là điều bắt buộc trong tương lai.

Tử Cấm Thành

Hồ bán nguyệt bên phải còn nguyên vẹn.

Hồ bán nguyệt bên trái

Lớp tường thứ 2 (thành nội) cũng hình chữ nhật kích thước 430x370m. Lớp tường này không còn, nhưng vẫn còn một số dấu tích (hình 7). Khác với tường Tử Cấm Thành hoàn toàn bằng đá ong, tường thành nội bên trong đắp đất, bên ngoài bó đá ong hai bên, có 3 cửa. Tường đông và nam nay thành đường đi, tường bắc nay là đường mòn, tường tây thì trở thành một đoạn đường sắt. Cửa nam là cửa chính nên gọi là cửa Tiền ngay giữa hai voi đá. Cửa đông và cửa tây nằm giữa tường thành như hình 7.

Thành Nội

Từ nguyên cứu ban đầu của Henri Parmentier, người Pháp coi trọng giá trị của Thành Hoàng Đế. Năm 1926, một cuộc khảo sát và khai quật quy mô lớn được tổ chức tại đây. Một chiếc máy bay được điều động bay quanh thành và chụp hơn 20 bức ảnh trên không, sau đó ghép lại thành một tấm không ảnh lớn mô tả toàn bộ ngôi thành này. Và lớp tường thành cuối cùng, lớp thứ 3 - Thành Ngoại, đã thể hiện rõ ràng với chu vi cực lớn: 7.482m, tổng diện tích 3,42km vuông.



Không ảnh Thành Hoàng Đế năm 1926

Và bây giờ là giai đoạn đau đầu. Những lời t nói phía dưới, bạn khó thông nổi nếu không tập trung. Hãy mở Google Map và đọc nhé.

Ảnh vệ tinh ngày nay

So sánh với ảnh vệ tinh hiện nay, cạnh phía nam bắt đầu từ Nghĩa trang liệt sĩ Đập Đá (tọa độ: 13.9239,109.0855 , copy dãy số này dán vào Google Map để biết vị trí chính xác) theo đường Đào Duy Từ - Lê Duẩn - Đô Đốc Long đến Quán Nhậu Bình Dân Thanh Lịch (13.9375,109.0854). Cạnh phía bắc từ Quán Nhậu Bình Dân Thanh Lịch theo đường Đô Đốc Long đến Cầu Bến Gỗ (13.9356,109.0657). Cây cầu này khi đó là bến đò của Thành Hoàng Đế. Cạnh phía tây từ Cầu Bến Gỗ chạy theo đường cong dọc bờ ruộng đến tọa độ 13.9214,109.0660 , gần nghĩa địa Nhơn Hậu. Cạnh phía nam từ tọa độ trên (13.9214,109.0660) đến Nghĩa trang liệt sĩ Đập Đá, khép kín vòng thành 4 mặt.

Chiều dài các cạnh không đều nhau, cạnh phía bắc dài 2.038m, cạnh phía Nam dài 2.118m, cạnh phía Đông tương đối thẳng dài 1.564m, cạnh phía Tây uốn lượn, hơi lệch về hướng Tây-Nam, dài 1.610m.

Thành có 5 cửa. Ở ảnh vệ tinh, các cửa được đánh dấu bằng ô vuông màu xanh.

- Cửa Đông gọi là cửa Tả, nằm tại giao cắt Lê Duẩn và Huyền Trân Công Chúa.

- Cửa Tây là cửa Hữu, tọa độ 13.9326,109.0649 , nằm chếch về phía bắc cạnh bến đò Bến Gỗ.

- Cửa Bắc là cửa Hậu, tọa độ 13.9368,109.0778 , đường vào cửa này nằm giữa Chùa Thập Tháp và Tháp Mắm.

- Thành nhìn về hướng Nam, nên cửa Vệ (cửa Nam) còn có tên là cửa Tiền, tọa độ 13.9216,109.0694 . Cửa này nằm tại đường sắt, lệch về bên phải Thành Nội một chút.

- Ngoài các cửa trên, mặt phía Nam còn mở thêm một cửa - cửa Tân Khai (mới mở). Vị trí này thuộc Khu vực Nam Tân ngày nay. Phải chăng tên khu vực này cũng có liên quan đến cửa thành. Ở ảnh vệ tinh, Thành Nội và Tử Cấm Thành được đánh dấu bằng màu tím và đỏ. Bạn dễ dàng nhận ra trung tâm của thành nằm lệch về hướng tây nam. Nguyễn Nhạc kế thừa toàn bộ Thành Đồ Bàn trước kia. Sau đó, ông mở rộng thành về hướng đông, nên cấu trúc thành có sự kỳ lạ như thế. Các cửa thành cũ đều được giữ lại, sau vì xét thấy cửa tả hơi lệch phía hữu, vả lại ở phía trước mặt cung thất không tiện cho sự vận chuyển, bèn mở thêm 1 cửa ở phía tả.

Như vậy, t đã mô tả toàn bộ Thành Ngoại cho các bạn rồi. Còn một vị trí hơi đặc biệt với t. Quốc lộ 1 đi qua khu vực Bả Canh, tận dụng tường thành đông làm đường đi, khi đến góc đông bắc thành thì bẻ cua rất gấp. Nay đường được nắn thẳng hơn, đoạn cua trở thành công viên. Khi đó t không hiểu lý do. Giờ thì đã hiểu.

Còn một nhiệm vụ nữa. Ở bên trên, t hứa sẽ cho bạn biết quy mô Thành Đồ Bàn. Từ Thành Hoàng Đế, ta đã biết được gần như toàn bộ về Thành Đồ Bàn, trừ bức tường thành hướng đông. T chưa tìm được tài liệu cho biết cụ thể về nó. Nhưng dựa vào thực tế và thói quen thích dựa vào địa hình để xây thành của người Chăm, t đã tìm được nó. Chính là đường chỉ màu trắng ở hình dưới.

T đã nói rất nhiều về ngôi thành này nhưng vẫn còn nhiều điều cần khám phá. Có những điều t biết nhưng còn mơ hồ nên không dám nói bừa. Những điều mơ hồ để dành cho các nhà khoa học vậy. Chỉ với ngôi thành này đã chứa đựng biết bao vui, buồn, hạnh phúc, đau thương của biết bao vĩ nhân. Họ có nhiều khác biệt, nhưng ít nhất có một điểm chung. Điểm chung đó chính là chúng ta. Họ là tổ tiên của t và bạn. Thế hệ con cháu của những anh hùng!

Nhận xét

Bài đăng phổ biến