Về Đập Đá - An Nhơn
Khúc sông Côn chảy qua Đập Đá, từ xa xưa được người địa phương gọi là sông Đập Đá. Vùng đất bên bờ sông Đập Đá, ngày trước có thành Đồ Bàn, về sau có thành Hoàng Đế - kinh đô của nhà Tây Sơn...
Huyện An Nhơn (Bình Định) ngày nay gồm 13 xã và hai thị trấn là Đập Đá và Bình Định. Nói đến các xã là nói đến nông thôn, nông nghiệp, nông dân, còn nói đến thị trấn là phải nói tới ngành nghề, thợ thủ công, giới doanh nhân, tiểu thương... Người An Nhơn nói chung và người Đập Đá nói riêng, luôn tự hào khi được sống trên mảnh đất có bề dày văn hóa - lịch sử, vùng đất trữ tình với các câu ca mượt mà lan tỏa trên sông nước, êm ái nơi những chiếc võng ru em:
Anh về Đập Đá đưa đò
Trước đưa quan khách sau dò ý em
Em về Đập Đá quê cha
Gò Găng quê mẹ, Phú Đa quê chàng
Anh về Đập Đá, Gò Găng
Để em kéo vải sáng trăng một mình
Đập Đá là tên gọi của một con đập "dẫn thủy nhập điền" được xây dựng đã hàng trăm năm. Sở dĩ xã được mang tên hành chính như vậy vì xưa kia đây là vùng sông nước với sông Kôn với nhiều nhánh chằng chịt. Các cư dân vùng này phải đắp đập bổi để canh tác gọi là đập Thạch Yển, sau là đập Thạch Đề tức là Đập Đá, vì chỗ này sông rộng, có bến đá ong nổi tự nhiên rất đẹp.Có lẽ từ đó mới ra đời các tên gọi khác, như chợ Đập Đá trong làng cổ Phương Danh thuộc tổng An Ngãi; rồi đến xã Đập Đá với các thôn Phương Danh, Bằng Châu, Bả Canh, Mỹ Huề vốn thuộc xã Nhơn Hậu được thành lập trước đó không lâu. Rồi từ xã Đập Đá, mà dần thành thị trấn Đập Đá hôm nay.
Đập Thạch Đề
Đập Thạch Đề 1969 - Photo by James Speed Hensinger
Đập Đá là nơi xưa kia anh Hai Trầu Nguyễn Nhạc thường xuôi ngược sông Kôn từ Tây Sơn Thượng đạo xuống, chở theo trầu cau mua bán, đổi chác hàng hóa ở đây nhưng cũng là để thăm dò dân tình, chuẩn bị tổ chức lực lượng cho cuộc khởi nghĩa. Đây chính là quê hương của ông "Chảng Ngang Thiên" Đinh Văn Nhưng, một trong những thầy dạy võ, người đỡ đầu anh em Tây Sơn.
Xã Đập Đá xưa có nhiều ngành nghề truyền thống, mỗi làng lại thường tập trung vào một vài ngành nghề, làm nên đặc trưng của làng, như Phương Danh là làng dệt, nuôi ngựa, vì đất làng này trồng được cây bông vải và có loại cỏ ngon cho ngựa ăn (chữ Phương Danh có nghĩa là Cỏ thơm), Bằng Châu là làng đúc đồng, Bả Canh là làng thuần nông (chữ Bả Canh có nghĩa là cầm cày)... Làng nghề nào cũng sản xuất ra được những mặt hàng nổi tiếng trong vùng, trong xứ, trong cả nước. Người thợ thủ công Đập Đá biết theo kịp thời trang, tùy hoàn cảnh mà sản xuất ra những mặt hàng mới và thích hợp. Từ trồng bông vải để dệt vải ta, vải tám, bà con tiến tới trồng dâu, nuôi tằm để dệt tơ, lụa; khi vải ngoại nhập ngày mỗi nhiều thì bà con chuyển sang dệt mùng màn, khăn mặt. Một thời, người thợ ở làng dệt Phương Danh đã dệt được mặt hàng tơ lụa tuýt-so rất được giới mặc "Âu phục" ưa chuộng, nhất là khi sử dụng để "đóng" những bộ com-lê, vét-tông thời trang. Rồi nghề đúc đồng Bằng Châu thời trước vẫn thường được triều đình hay địa phương giao đúc lư, đỉnh, "đại hồng chung" cho các đền, chùa lớn. Về sau, người Bằng Châu đã từ đúc đồng chuyển sang gò đồ đồng, gò đồ kim loại bằng vỏ đạn, mảnh đạn khi gặp lúc khan hiếm đồng nguyên liệu... Cần cù và sáng tạo, các làng nghề phát triển thì vùng Đập Đá cũng nhờ đó mà mỗi ngày một phồn thịnh hơn.
Nghề xưa - dệt thổ cẩm tại Phương Danh
Thuở còn bé đôi lần theo mẹ đi Đập Đá, tôi tung tăng đi giữa những dãy nhà lều sườn gỗ, lợp ngói, vách ván ghép, nền gạch Bát Tràng, chia thành nhiều gian: gian hàng vải, gian hàng đồng, chỗ hàng rèn... Chợ họp mỗi tháng sáu phiên, vào các ngày 2, 7 theo Âm lịch, chủ yếu là nơi mua bán các sản phẩm do địa phương sản xuất. Những bộ đồ đồng như đèn lá sen, lư mắt cua, những hình thú bằng đồng như rùa, hạc, loan phượng, rồi nồi, chảo, cồng chiêng, chuông khánh, ảnh tượng, mâm, hộp... của thợ đúc đồng Bằng Châu vừa ánh nước đồng thau, đồng đen vừa cổ kính về kiểu dáng, vừa sắc sảo đường nét, luôn hấp dẫn khách mua hàng gần xa, nhất là với khách có "gu" thẩm mỹ, hay trọng cổ. Đi dạo chợ thỏa thuê, tôi còn được mẹ dẫn đi dạo phố. Chung quanh chợ là cao thấp những dãy phố của người Việt và người Hoa. Người Việt thì mở tiệm cắt tóc, lò rèn, bịt trống da trâu, thêu cờ phướn (Đập Đá cũng nổi tiếng nghề thêu mỹ nghệ với gia đình nghệ nhân Tư Hồng trải mấy đời làm nghề). Người Hoa thì mở tiệm thuốc bắc, tiệm ăn, tiệm nước tương, hiệu vấn thuốc lá điếu... Cách nay vài ba mươi năm, người quê tôi mỗi khi ốm đau, thường bảo nhau: "Lên tiệm Ba Tồn, Hiệp Thái bốc thuốc về uống", còn người nào thích ăn cơm Tàu, ăn bồ câu hầm thuốc bắc thì lên tiệm Xương Ký, lại còn bảo lên tiệm chè Tín Thái, Hiệp Thành mới mua được trà móc câu, trà mạn, trà Đài Loan thượng hảo hạng...
Một cơ sở sản xuất ở làng rèn Tây Phương Danh (Đập Đá - An Nhơn). Ảnh: N.Thái
Đập Đá có đò dọc ngang qua sông với những bến đò Bầu Sáo, Đập Đá nhộn nhịp cảnh trên bến dưới thuyền, "măng le chở xuống, cá chuồn gởi lên" (ca dao), nhưng cũng có một mạng lưới đường xe ngựa rộng khắp trong xã và đi các xã khác, xuống tới chợ Phú Đa, Cảnh Hàng - Khu Đông, lên tới chợ Cây Bông, An Thái - Khu Tây. Mỗi buổi sáng hay lúc chiều về, thường nhìn thấy từng đoàn xe ngựa chở hành khách (là thợ thủ công, người đi chợ, trẻ em đến trường...) chạy trên những con đường trước đây vốn là bờ thành cũ của thành Hoàng Đế thường lẫn trong mầu sương mai dày đặc hoặc mầu chiều hôm nắng quái. Và có thể nói, đó là một vẻ đẹp riêng của Đập Đá, không đâu có. Đập Đá ruộng đất ít, gò đá ong nhiều, sản xuất nông nghiệp không cung cấp đủ gạo ăn, nên đa số thị dân ở đây "ăn gạo chợ, uống nước sông", sông Đập Đá có nước trong, mát và ngọt. Trong sinh hoạt, thời trước, đàn ông người Việt ở Đập Đá thường mặc áo bà ba trắng may bằng vải "tàu bay", đi guốc mộc; còn phụ nữ thường mặc áo dài. Thị dân Đập Đá, không dọn bữa cơm dưới đất như thói quen của nông dân các làng quê bên kia sông, mà mâm cơm gia đình dọn lên đặt trên bàn ăn, trên phản ván gõ với đũa mun, chén mỏng, cơm trắng, thịt luộc, cá chiên, không thiếu cút rượu... Đập Đá lại có những sinh hoạt văn hóa - thể thao mà nơi khác không có. Vì ở đây có trường hát với bảng hiệu Thanh Xuân hí viện, có sân vận động Phương Danh. Có thể tin rằng, nghệ thuật ở tuồng Bình Định phát triển mạnh hơn từ khi ra đời các hí viện và trường hát. Các gánh hát như Bình An Ban, Thông Cừu... thường về Thanh Xuân hí viện biểu diễn, có đợt kéo dài cả tháng mà khán giả vẫn đông. Sân vận động Phương Danh thường tổ chức những trận đá bóng, thi đấu điền kinh, đôi khi có cả đua ngựa với quy mô toàn huyện, toàn tỉnh, khi thì để tranh giải, khi thì thi đấu giao hữu. Các ngành nghề truyền thống ở Đập Đá luôn thu hút thợ thủ công và nguyên liệu từ nơi khác đến. Mỗi khi Đập Đá mở rộng sản xuất, chuyển đổi ngành nghề thì các làng quê chung quanh cũng hưởng ứng để đáp ứng nhu cầu lao động gia tăng và nguyên liệu mới. Làng An Định của tôi, bao giờ cũng có đến gần một nửa dân làng lên đó làm thuê, người làm thợ dệt, thợ đúc, thợ rèn, thợ hồ, thợ mộc, người giúp việc nhà, gánh vác thuê. Còn nhớ có một thời, những thửa "ruộng soi" dọc các bờ sông Đập Đá, Cẩm Văn, Gò Chàm... nhất tề bỏ cây bông vải, chuyển sang trồng cây dâu, và vì thế mà chỉ sau một thời gian, trong các làng số hộ trồng dâu nuôi tằm tăng vọt. Có sự thay đổi như thế là vì để "làm ăn" với làng dệt Phương Danh khi đó đang mở rộng việc dệt tơ lụa, lương, lãnh, thay vì dệt vải như cũ. Người ta bảo, An Nhơn là đất của trăm nghề mà Đập Đá là trung tâm lớn nhất. Bởi ngoài các làng dệt vải, đúc đồng, chung quanh Đập Đá còn thấy có nghề rèn ở Nam Tân, nghề làm bún tươi ở Ngãi Chánh, nghề làm nón trắng ở Gò Găng, nghề khảm xà cừ ở Cẩm Tiên, nghề làm rượu Bàu Đá ở Nhơn Lộc, nghề làm nhang thơm ở Nhơn Thành... Thời kỳ 1945 - 1954, với phương châm "tự lực cánh sinh, kinh tế tự cấp tự túc", Đập Đá đã sản xuất không biết bao nhiêu mặt hàng để cung cấp cho tiêu dùng, cho cuộc sống hằng ngày của người dân Bình Định, cho Khu 5, cho cuộc kháng chiến. Không có "vải tây" thì có vải ta, vải tám; dép lốp thay dép da, chén bát đất nung thế chỗ chén bát bằng sứ tráng men, không có đèn dầu hỏa thì đèn thẩu; thiếu giấy Tây thì thay bằng giấy rơm. Người Đập Đá còn làm được cây đàn măng-đô-lin, đàn ghi-ta, bút máy ka-ô-lô bằng đất nung,... rồi cung cấp cho kháng chiến vải "xi-ta" để may trang phục cho bộ đội, rồi sản xuất vũ khí là dao găm, kiếm, mác... Người thợ thủ công ở Đập Đá thì lành nghề, tiểu thương, chủ doanh nghiệp nắm vững thị trường, giỏi tính toán, lại có ưu thế nằm bên quốc lộ 1A nên sớm thiết lập quan hệ với các trung tâm kinh tế - văn hóa ở trong tỉnh, ngoài tỉnh, tới phạm vi cả nước. Và cũng như những năm tháng trước đây, các sản phẩm do người Đập Đá lại tiếp tục đến với mọi miền. Ngày nay, thị trấn Đập Đá vừa củng cố vừa phát triển các làng nghề, mở rộng thương mại - dịch vụ. Nghề dệt có lúc gặp khó khăn, nhưng các nghề sản xuất đồ đồng, khảm xà cừ, làm nhang thơm, làm nước mắm, làm nem chả, và đặc sản rượu Bàu Đá... thì đang ăn nên làm ra.
Rồi thị trấn đã có Khu công nghiệp Gò Đá Trắng đang được nhiều nơi đầu tư. Cùng với thời gian, cùng với sự phát triển của đất nước, một Đập Đá của thời đại mới, một An Nhơn của thời đại mới đã và đang hình thành. Và hẳn là, dẫu có phát triển thế nào thì vùng đất này vẫn sẽ giữ được dáng vẻ lâu đời của nó. Theo quy hoạch của tỉnh Bình Định, sắp tới một thị xã An Nhơn sẽ ra đời. Đó là một thị xã phát triển theo hướng công nghiệp, thương mại - dịch vụ, du lịch và nông nghiệp. Và lúc này, nếu muốn hình dung về thị xã tương lai ấy, hãy về Đập Đá - An Nhơn.
-------------------------------------------------------
Hiện nay, Đập Đá là 1 phường của thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định .Đập Đá nằm ở trung tâm thị xã An Nhơn, bên bờ sông Đập Đá (một nhánh của sông Kôn), cách thành phố Quy Nhơn khoảng 25 km. Bắc giáp phường Nhơn Thành, nam giáp phường Nhơn Hưng, tây giáp xã Nhơn Hậu,đông giáp xã Nhơn An.
Đập Đá nằm trên đường Quốc lộ 1A. Đường này làm cho Đập Đá trở thành một nơi sầm uất của tỉnh Bình Định. Đập Đá có tốc độ phát triển kinh tế nhanh nhưng cơ sở hạ tầng giao thông đô thị còn thấp. Đập Đá có bảy khu vực là: Mỹ Hòa, Nam Phương Danh, Bắc Phương Danh, Tây Phương Danh, Đông Phương Danh, Bả Canh và Bằng Châu.
Tổng hợp từ Internet
Nhận xét
Đăng nhận xét